Nhà Báo, Nhà Văn, Nhà Thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du và Tiếng Gọi Phương Đông

Nguyễn Hoàng Lãng Du và Tiếng Gọi Phương Đông

Tác giả: Lê Công Dzũng

Nguyễn Hoàng Lãng Du và TIẾNG GỌI PHƯƠNG ĐÔNG hay những vần thơ trăn trở về quê hương, thân phận và tình yêu

Viết cho chuyên mục bình thơ của Hương Xưa theo lời yêu cầu của Lê Trọng Minh Kha và xin riêng tặng nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du và các giọng ngâm Sông Song, Lệ Thu và Ngô đình Long để tỏ lòng cảm mến. Và lẽ dĩ nhiên xin mến tặng tất cả thân hữu yêu quí của Hương Xưa. LCD

Từ những vần thơ rực lửa đấu tranh …

Tôi hân hạnh được anh Nguyễn Hoàng Lãng Du tặng DVD Tiếng Gọi Phương Đông trong một lần đi dự tiệc ở nhà một người bạn. DVD có 12 bài thơ của anh được các nghệ sĩ Sông Song, Ngô Đình Long và Lệ Thu diễn ngâm. Sáng hôm sau tôi dành gần hết cả một ngày Chúa Nhật để nghe đi nghe lại những bài thơ trong đó.Tôi như bị cuốn hút vào dòng thơ của anh từ những bài thơ bi hùng, đầy hào khí, rực lửa đấu tranh như Khúc Ca Cuồng Nộ, rồi Trong Đêm Cuồng Nộ…, cho đến những bài thơ trăn trở về thân phận của mình trong Biển Đông Sóng Giục, Gọi Dậy Ngàn Năm…Và sau nữa là những bài thơ tình chất chứa những tình yêu sâu sắc và lặng động như Chiều Say, Kim Chỉ, Thuở Vỡ Lòng Yêu…Anh NHLD, người mà bạn bè thường đặt cho nhiều biệt hiệu như Lãng Tữ, hoặc ông Hoàng, là một con người rất dễ mến, tính tình hiền hòa và rất mực khiêm nhường, nói năng rất từ tốn, điềm đạm và đặc biệt luôn nở một nụ cười trên môi.

Con người anh thì hiền và dễ thương như thế nhưng khi làm thơ, đặc biệt là khi bọn giặc phương Bắc có ý đồ xâm chiếm biển Đông của tổ quốc, thì hồn thơ anh bốc lửa, và lời thơ đã thành những tiếng thét vang lên để thúc giục lòng người đứng lên để đương đầu với quân cướp nước bạo tàn trong “Khúc Ca Cuồng Nộ”:

Em cứ hát cho hồn anh bốc lửa.

Giận xé trời thành sấm chớp trên cao.

Em hát xong, xin hát thêm lần nữa.

Cho ruộng đồng, sỏi đá phải xôn xao.

(Khúc Ca Cuồng Nộ- NHLD)

 

Lời thơ anh như một tiếng kèn xông trận, làm cho tinh thần ta phấn chấn, sẵn sàng ta tiến lên không chùn bước trước quân thù, với một niềm tin son sắc sẽ làm cho lũ giặc tan hoang như đã bao nhiêu lần trong quá khứ:

Đường Tổ-Quốc hôm nay như nhuộm máu

Chân ta đi nộ-khí mãi không chùn,

Mang ý-chí đương đầu quân tàn-bạo.

Trăm lần rồi lũ giặc đã tan hoang

(Khúc Ca Cuồng Nộ – NHLD)

Bài thơ Khúc Ca Cuồng Nộ đã được cô Sông Song, một giọng ngâm truyền cảm của vùng đất Quy Nhơn diễn ngâm. Sông Song như đã để hết hồn mình vào bài thơ, như đã thổi thêm lửa, thêm tình, thêm cái nồng nàn, say đắm như truyền thêm vào ý thơ hùng tráng để ta nghe thấy lòng mình cũng như bừng bừng rực lửa, với một niềm tin và ý chí dâng lên ngút ngàn, sẵn sàng ra đi để diệt lũ giặc thù cứu nước.

Rồi “Biển Đông Sóng Giục” cũng do Sông Song trình diễn. Ở đây tôi xin nói đến giọng ngâm Sông Song, Ngô Đình Long và Lệ Thu qua 12 bài thơ của Nguyễn Hoàng Lãng Du để những đoạn sau, có những bài thơ tôi không đề cập đến những giọng ngâm này nữa mà chỉ đi sâu vào thơ để cảm nhận những giòng thơ của NHLD. Trước hết giọng ngâm thơ của Sông Song. Cô có một giọng ngâm thật truyền cảm, khi thì nhẹ nhàng, khi thì sâu lắng. Khi thì lên cao vút, sắc bén như hòa cùng những ý thơ của NHLD. Giọng ngâm cô đã chuyển tải nội dung của những bài thơ này và làm cho thơ càng dễ thấm sâu vào lòng người thưởng ngoạn. Với những bài thơ tình yêu thì giọng cô chất chứa nồng nàn, trữ tình. Khi thơ buồn thì giọng cô trầm lắng, và khi những lời thơ rực lửa đấu tranh thì giọng ngâm của cô như có pha thêm chất thép, làm cho người nghe phấn chấn như người chiến sĩ nghe những tiếng kèn xông trận. Trong 12 bài thơ thì cô đã trình bày một mình 6 bài và một bài chung với Ngô Đình Long. Ngô Đình Long có một một giọng ngâm trầm ấm, đỉnh đạc, phát âm từng câu thơ từng chữ rõ ràng, mạch lạc. Có khi anh đi xuống những cung bậc thật thấp, làm cho người nghe như chùng xuống cùng với ý thơ, khi thì ngân nga cao vút làm cho thơ bay bỗng, vươn lên tới những đỉnh trời cao ngất. Rồi Lệ Thu cũng đã thể hiện những nét cá biệt của cô với một chất giọng ngọt ngào, nhẹ nhàng trong suốt như dẫn ta đi qua bao con sông bao suối, bao núi bao đèo. Nếu giọng ngâm của Sông Sông đưa người ta vào cõi trầm mặc của những niềm suy tưởng, thì giọng ngâm của Lệ Thu làm cho ta nương theo những cung bậc nhẹ nhàng và dịu êm của một bản tình ca. Phải thú thật rằng khi tôi ngồi trước màn hình và lắng nghe những giọng ngâm này, lòng tôi cứ như đi theo những vần thơ của anh, như uống hết từng lời thơ dịu êm, đằm thắm và nồng nàn, nghe từ bài đầu tiên cho đến bài cuối cùng với một tâm trạng như bị những giòng thơ và giọng ngâm cuốn hút.

Bài thơ Biển Đông Sóng Giục, ta thấy được bao nỗi ngậm ngùi, nỗi lòng của tác giả, “lực bất tòng tâm” khi nghĩ đến sức tàn phá của thời gian lên thân phận con người. Lời thơ như phảng phất những nét u hoài, đọc lên cứ nghe nghèn nghẹn và một nỗi xót xa dâng tràn:

Ta đến đây một đời chân gối mỏi

Đồi núi buồn hèn mọn đứng xôn xao

Và tác giả bỗng thấy đau lòng cho thân tráng sĩ, ngửa mặt lên trời để cười mà lòng đau như xé tim gan:

Ta tráng sĩ lòng đau giờ rực lửa

Ngửa mặt cười lời động xé tim gan

Và rồi:

Tiền thân ư? Hành trang đầy chứng tích

Kiếm cung mòn in rõ dấu trăm năm

Nhưng cái giây phút “yếu lòng” đó qua đi rất mau vì tiếng gọi Việt Nam lại dâng cao lên ngút ngàn trong lòng tác giả. Tiếng gọi của tổ quốc, tiếng gọi của hồn thiêng sông núi lại dâng lên trong “Trong Đêm Cuồng Nộ”:

Việt Nam! Việt Nam

Ta lên tiếng gọi

Việt Nam! Việt Nam

Lửa đốt thiêu ta

Để rồi giấc mơ Kinh Kha hơn bao giờ hết lại trở về trong lòng anh:

Sao ta không là tráng-sĩ?

Sao ta không là Kinh-Kha?

Tiếng gọi vang đi và vang đi mãi. Sao anh lại nín lặng? Sao anh lại thờ ơ? Chỉ còn tiếng gọi vang lên trong cõi vắng :

Sao anh em nín-lặng?

Sao anh em thờ-ơ?

A ha nhớ thuở tung cờ

Quân đi có kẻ đợi-chờ trên non.

Để rồi anh lại quay về tự trách mình, ôi những lời trách móc thật chua xót:

Bây giờ sóng gió cô-đơn

Mình ta ngất-ngưởng gọi hồn Núi Sông.

Ta giận ta hề tài hèn, mộng lớn.

Ta buồn ta hề sức nhỏ, chí cao.

(Trong Đêm Cuồng Nộ-NHLD)

Những câu thơ làm cho tôi nhớ đến mấy câu thơ của Tú Xương:

Thiên hạ có khi đang ngủ cả

Tội gì mà thức một mình ta?

Có thật là thiên hạ đang ngủ cả không? Không, tôi không tin như thế! Có thật là anh đang trong sóng gió cô đơn? Không, tôi cũng không tin là anh đang cô đơn!

Rồi gã mù ôm cây đàn độc huyền réo rắt những tiếng gọi non sông trong “Gọi Dây Ngàn Năm” cũng do Sông Song diễn ngâm. Giọng ngâm cô như đi theo từng cung bậc của tiếng đàn. Tiếng đàn độc huyền réo rắt như vang động lại ngàn năm của đất nước:

Rồi gã mù ôm mùa Đông thức dậy

Tiếng độc huyền vang động tới ngàn năm

(Gọi dậy Ngàn Năm- NHLD)

Khi thì tiếng đàn reo vui cùng Uy Viễn tướng công, khi thì hào hùng với khí thế của Hội Nghị Diên Hông:

Đàn reo vui tiếng cười Uy Viễn

Thuở tiêu dao ngất ngưỡng cưỡi lưng bò

Đàn hào hùng điện Diên Hông sấm động

Những cha già tóc trắng sát bên nhau

(Gọi Dậy Ngàn Năm- NHLD)

Và khi tiếng bom Sa Điện của liệt sĩ Phạm Hồng Thái đã không thành công thì ta nghe tiếng đàn vang lên những lời xót xa tiếc nuối:

Đàn xót xa tiếng bom vang Sa Điện

Một ngày buồn bão tố ngập quê hương

Rồi cuối cùng gã mù, chỉ biết vui với cuộc đời cô quạnh, đem tất cả yêu thương và nỗi lòng của mình trút xuống dây đàn độc huyền với ước mong ước có một ngày mùa Xuân sẽ trở lại:

Ta mắt mù vui với đời cô quạnh

Mang yêu thương trút xuống một dây đàn

Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh

Trong rừng đào ôm sứ đợi Xuân sang

(Gọi Dậy Ngàn Năm – NHLD)

Giòng thơ anh tiếp nối trong “Lửa Đốt Đêm Say” nghe thoáng có một chút bất cần đời và nhách miệng cười khinh bạc:

Ta bỏ đi vai mòn manh áo rách,

Ðể lại đời phó-mặc lũ ngu-ngơ

(Lửa Đốt Đêm Say- NHLD)

Để cái lũ vượn và người ngu ngơ đó soi bóng mình bên giòng nước thấy sao thật giống nhau, vượn giống người hay người giống vượn đây?

Buổi chiều hoang đứng bên giòng uống nước,

Vượn và người soi bóng thấy như nhau

(Lửa Đốt Đêm Say – NHLD).

Rồi có một lần nào đó anh trở về bên bờ lau dại tìm lại thanh kiếm cũ của một thời để vá víu một chút đam mê với những giấc mộng chưa thành:

Ðào thanh kiếm bên ven bờ lau dại.

Ôn mộng đời vá-víu chút đam-mê.

( Lửa Đốt Đêm Say – NHLD)

Nhưng anh lại phân vân giữa “đi và ở”, tự nhận mình như kẻ bỏ cuộc trong cuộc chiến này. Và hồn anh bỗng dưng ấm lại như có ngọn lửa bừng lên khi một đêm tay mãi mê mài thanh kiếm lạnh dưới bóng trăng:

Ở hay đi hỡi tên khùng bỏ cuộc?

Trận chiến này ta đánh với ngươi thôi.

Gã dị-hình làm lũ người trốn chạy.

Chỉ còn em nước mắt đẫm vui mừng.

Ai xót-xa khi lòng ta lửa dậy,

Trong đêm mài kiếm lạnh bóng trăng tan.

(Lửa Đốt Đêm Say – NHLD)

Giọng ngâm của Ngô Đình Long và Lệ Thu đưa ta về với “Những Người Cha Trong Lòng Dân Tộc”, một bài thơ vinh danh những người Cha của dân tộc, từ người trong huyền thọai đã khai sinh ra đất nước Văn Lang là Lạc Long Quân, cho đến Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm. Rồi những người Cha trong Hội Nghị Diên Hồng đời nhà Trần với ngàn cánh tay dâng cao với “ lời thề quyết chiến”. Dòng thơ tiếp tục nhắc nhở cho chúng ta một người Cha khác là Hưng Đạo Đại Vương với lời thề bên sông Hát: “Nếu không thắng được giặc ta thề sẽ không trở lại dòng sông này!” Rồi người Cha Đặng Dung mài gươm dưới trăng: “Thù nước chưa xong đầu đã bạc, gươm mài vầng nguyệt đã bao ngày”. Người Cha Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở đất Lam Sơn 10 năm để đánh tan giặc Minh. Dòng thơ anh dẫn dắt chúng ta đến những trang lịch sử oai hùng của những ngày cận đại với người Cha Quang Trung Đại Đế áo vải cờ đào đánh tan hai mươi vạn quân Thanh:

Con thấy Cha trên đầu voi anh-võ

Bốn phương vang pháo lệnh lúc công thành

(NNCTLDT-NHLD)

Tiếp nối những trang sử cận đại là người Cha Duy Tân, người Cha Nguyễn Thái Học đã để lại cho chúng ta niềm tự hào cao ngất “không thành công thì cũng thành nhân”:

Rồi Sông Núi vang lời ai dặn

“Công không thành nhưng cũng đã thành nhân”.

(NNCTLDT – NHLD)

Anh cũng đã không quên những người Cha khác, những người Cha trong đời thường ở giữa chúng ta là những người Cha nhà giáo, người Cha chài lưới, người Cha đồng ruộng, người Cha buôn bán. Anh đã dành những tình yêu thương và lòng kính phục cho người Cha khuân vác làm việc gian khổ nặng nhọc:

Con thấy Cha nơi bến tàu khuân vác

Những bao hàng to lớn nặng trên vai

(NNCTLDT – NHLD)

Chắc hẳn lòng chúng ta sẽ chùng xuống dâng lên những nỗi cảm xúc nghẹn ngào cho những người Cha đang rơi vào cảnh túng quẩn phải đi bán đi những giọt máu của mình:

Con thấy Cha trong hàng người bán máu

Thất nghiệp rồi nên đủ nỗi tang thương

(NNCTLDT – NHLD)

Cuối cùng anh đã nhìn thấy tất cả những người Cha của Anh-Linh nước Việt với một tình thương yêu đằm thắm và đầy lòng kính phục.

Con thấy Cha: Ôi, Anh-Linh nước Việt!

Cha là hồn, là máu huyết nơi con.

Cha là Biển Đông, tình yêu thắm-thiết.

Cha là Trường Sơn, oai-dũng vô ngần.

(NNCTLDT – NHLD)

Hai giọng ngâm của Lệ Thu và Trần Đình Long đã đưa ta đi theo bao cảm xúc khi thì với lòng kính phục, khi thì yêu thương, khi thì đầy trắc ẩn để cuối cùng là lòng tự hào về những người Cha trong lòng dân tộc của chúng ta.

Cho đến những dòng thơ tình diễm tuyệt…

Nguyễn Hoàng Lãng Du, tôi nghĩ trước đây không phải là một nhà thơ chuyên về những bài thơ tranh đấu. Nhưng vì bức xúc trước một giai đoạn đặc biệt của lịch sữ, của đất nước nên những con người có tâm huyết đối với quê hương, đối với tiền đồ dân tộc, anh đã chuyển hương ngòi bút của mình. Cũng như Ngô Tín, anh từ đầu cũng không phải là người sáng tác những bản hùng ca như trước đây tôi đã có bài viết về anh, nhưng vì trong một giai đoạn đặc biệt của đất nước, nên Nguyễn Hoàng Lãng Du, Ngô Tín, Nguyên Lương và nhiều người khác nữa đã viết lên những bài thơ, bài nhạc đầy chất thép, như bão lửa dâng tràn để mong làm những lời thức tĩnh cho nhưng ai còn im lặng, còn thờ ơ đối với hiện tình đất nước.

Tôi xin trở lại với những vần thơ tình của Nguyễn Hoàng Lãng Du. Vâng, sáu bài thơ khác trong Tiếng Gọi Phương Đông là những bài thơ tình thật hay của tác giả. Cái hay của anh ở đây luôn luôn là những trăn trở, với những cảm xúc thật sâu lắng và hàm chứa những tư tưởng sâu xa, chứ không bao giờ là những lời than khóc ủy mị, sướt mướt.

Bài “Chiều Say”, như gợi nhớ về một thời của một người lính trận tóc còn xanh năm nào, với áo vá và những nỗi nhớ nhà:

Ta tên lính trận còn xanh tóc

Áo vá trên vai hết nhớ nhà

(Chiều Say- NHLD)

Tôi không nghĩ là người lính “hết nhớ nhà” đâu, mà anh ta đang nhớ nhà đó, nếu không muốn nói là nhớ thật nhiều! Rồi anh nhớ về một người con gái nào đó như trong truyện cổ tích lên non chờ chồng đến hóa đá. Ngày đó, những người lính trận có lẽ khi ra đi đã không bao giờ dám hẹn một ngày trở về, khi em thì đang ở tuổi trăng thề, khi thôn làng đang ngập tràn trong lửa cháy:

Em xót-thương ai trong cổ-tích,

Lên non hóa đá đứng trông chờ.

Còn em giữa tuổi trăng thề-ước,

Lửa cháy thôn làng, cau xác-xơ.

(Chiều Say – NHLD)

Cuối cùng là nỗi nhớ về em khi anh chiều nay, một buổi chiều ly hương, mềm môi bên chén rượu:

Chén rượu xưa kia cùng trái cóc,

Chiều nay xa xứ bỗng dưng thèm.

Chiều nay bên quán buồn ngây-ngất,

Trong chén say này, ta thấy em.

(Chiều Say – NHLD)

“Trong chén say này ta thấy em”. Một câu thơ thật hay, thật sâu lắng. Câu thơ làm tôi liên tưởng đến hai câu thơ trong “ Đôi Bờ” của Quang Dũng : “Thoáng hiện em về trong đáy cốc. Nói cười như chuyện một đêm mơ ” (Đôi Bờ – Quang Dũng)

Có những vật tưởng như rất bình thường như cây kim, sợi chỉ và cũng có những công việc tưởng như rất bình thường trong đời sống hàng ngày, nhưng dưới mắt nhìn của nhà thơ NHLD thì những vật ấy, những công việc ấy bỗng trở nên thân quen và mang một ý nghĩa rất sâu sắc và thâm thúy. Trong bài “Kim Chỉ”, chúng ta đã thấy tác giả đã đưa người thợ may kia với những đường kim mũi chỉ vào trong những vần thơ thật đẹp và vô cùng lãng mạn:

Vá cho anh dăm mảng đời phiêu bạt

Đem dịu dàng che lấp nỗi chua cay

(Kim Chỉ- NHLD)

“Đem dịu dàng che lấp nỗi chua cay”, tôi nghĩ đây là một câu thơ thật hay, thật sâu lắng. Và công việc tưởng như bình thường đó đã mang một ý nghĩa vô cùng cao quí:

Từng sợi chỉ biến thành quà nuôi mẹ

Mưa buồn phiền mái dột dưới trời xa

Nối cho anh hai bên bờ biển cả

Nhiều đêm dài thăm thẳm giữa đời ta

(Kim Chỉ- NHLD)

Nhà thơ đã nhìn vẻ đẹp của người con gái đó, không cần phải điểm trang bằng lụa hồng vải trắng, mà chỉ là một chiếc áo bình thường, đơn giản nhưng rất đẹp trong những vần thơ của anh:

Hỡi cô gái có một thời tóc ngắn

Anh yêu em hơn cả thuở hẹn hò

Áo cho người, may lụa hồng vải trắng

Áo cho mình, đơn giản đẹp trong thơ

(Kim Chỉ- NHLD)

Cho nên ai muốn đến với nhà thơ Lãng Du không cần phải đeo nhẫn kim cương và mặc lụa hồng vải trắng, đôi khi chỉ cần một chiếc áo bà ba rất đơn giản và đeo nhẫn cỏ cũng đã trở thành thật đẹp trong thơ anh!

Lệ Thu bằng một giọng ngâm nhẹ nhàng, truyền cảm đưa chúng ta trở về những vùng trời kỷ niệm của thuở học trò trong bài thơ “Thuở Vỡ Lòng Yêu”. Khi anh trở về ngôi trường cũ vào một buổi chiều vàng, hàng phượng hồng cũng đã theo em đi vào dĩ vãng, chỉ còn lũ ve sầu cất lên những giọng buồn khi bước chân anh trở lại:

Khi anh về chiều vàng trên phố nhỏ,

Hàng phượng hồng rực-rỡ đã theo em.

Trường khóa cổng nhưng tình không bỡ-ngỡ,

Ngõ ve sầu như động bước chân quen.

(Thuở Vỡ Lòng Yêu- NHLD)

Rồi thi nhân bỗng nhớ lại cái thuở dại khờ xa xưa ấy, cái thuở mà một bài thơ tình làm mãi suốt đêm vẫn không xong:

Bài thơ tình lần đầu nghe vụng-dại

Đêm hạ dài sao mãi vẫn chưa xong.

(Thuở Vỡ Lòng Yêu- NHLD)

Những kỷ niệm ray rứt của ngày xưa, cái “Thuở Vỡ Lòng Yêu” đó bỗng trở về trong tâm tưởng của tác giả thật đẹp và cũng thật dễ thương. Cái Thuở Vỡ Lòng Yêu đó có lẽ cũng thoáng qua đi như tình yêu vu vơ của ngày mới lớn, bây giờ nhung nhớ cũng đã tàn phai nên tôi đã không tìm thấy “sợi nhớ sợi thương” hay là những vấn vương, nuối tiếc trong bài thơ này, nó chỉ thoáng bay đi nhẹ nhàng như những đám mây trong chiều vàng mà anh trở lại:

Em còn anh chờ đợi cuối sân trường.

Em là mưa cho đời không nắng hạn.

Ngón tay mềm, trang giấy bỗng thân thương.

(Thuở Vỡ Lòng Yêu- NHLD)

Những giòng thơ tình của anh được tiếp nối với những vần thơ trong bài “Áo Trăng”. bài thơ không nhẹ nhàng phảng phất như “Thuở Vỡ Lòng Yêu” tôi đã trình bày ở trên mà là những ray rứt, những “nỗi buồn tê dại” qua sự diễn ngâm của Sông Song:

Giọt mưa xuống như lời kinh tiễn-biệt.

Đôi chân điên chưa mỏi nỗi thương đời.

Một người khóc bên giòng sông nước siết.

Một người buồn tê-dại lúc ra khơi.

(Áo Trăng- NHLD)

Ôi, những câu thơ thật hay, đầy sức diễn cảm! Không biết em có còn nghe hối tiếc khi anh không hiểu được tình em?

Em hối-tiếc tình anh không thể hiểu?

Thơ trong trăng chữ nghĩa bỗng dư-thừa.

Để rồi cuối cùng trong một buổi chiều lưu lạc bên quán gió, chỉ còn những nỗi nhớ thương đau buốt khi đông tàn:

Chiều lưu-lạc mơ-màng bên quán gió.

Nhớ thương ai đau buốt lúc đông tàn.

(Áo Trăng- NHLD)

Giọng ngâm Sông Song lại trầm xuống ru hồn ta vào “Giữa Cõi Đi Về” khi tác giả trãi nghiệm trong sự chơi vơi của “vòng quay đảo lộn”, chập chờn trong cái biên giới mơ hồ “giữa cõi đi về”, giữa cái sống và cái chết:

Trăng vẫn chiếu cuộc chơi từ cổ-độ,

Chợt vòng quay đảo lộn cả phương trời.

Nơi bãi vắng đóa hoa vừa nở rộ,

Thuyền ơi thuyền nước chẩy cứ trôi xuôi.

(Giữa Cõi Đi Về- NHLD)

Khi con người nhận ra cái chân lý của cuộc đời là vô thường, mọi sự đều trở thành hư vô, giữa sự sống và sự chết chỉ cách biệt trong nháy mắt thì đi hay về lối nào cũng đẹp cả:

Tới hay lui, lối đi nào cũng đẹp.

Ở hay về, đường vọng những lời chim.

(Giữa Cõi Đi Về- NHLD)

Khi mơ màng ở “giữa cõi đi về” thì anh bỗng nghe tiếng hát mơ hồ như lời ca đưa tiển ta về chốn ít ai tìm, cái chốn không tên:

Có tiếng hát mơ hồ trên bến hẹn

Tiển chân nhau tới chốn ít ai tìm?

(Giữa Cõi Đi Về- NHLD)

Có phải đó là lúc anh trở lại giữa cõi đi về và tạ ơn, không phải tạ ơn Phật, không phải tạ ơn Chúa mà là tạ ơn chăn gối là những vật vô tri êm ái đã gần gũi và làm cho tấm thân anh êm ái những lúc đau:

Hỡi chăn gối đã đưa ta trở lại

Tạ ơn nhiều êm-ái lúc thân đau

Hỡi viên thuốc trên đầu môi tê dại

Dư vị này ta giữ đến mai sau

(Giữa Cõi Đi Về- NHLD)

Tôi muốn kết thúc bài viết về thơ của anh NHLD trong DVD Tiếng Gọi Phương Đông bằng một bài thơ nhẹ nhàng thanh thản “Trên Giòng Sông Trắng” do Ngô Đình Long diễn ngâm. Bài thơ mà tôi nghĩ không có gì lãng mạn, trữ tình hơn khi một lần nào đó trong đời anh đã đi lên tận đầu nguồn của sự im vắng, để tìm cho lòng mình một cõi yên bình, viết những vần thơ trên lá và thả trôi theo dòng nước:

Đã có lần nơi đầu nguồn im vắng

Anh làm thơ trên lá thả theo giòng

(Trên Giòng Sông Trắng- NHLD)

Ở tận đầu nguốn im vắng đó, thơ anh đã trinh khiết như những giọt sương, vì thơ đang ở chốn uyên nguyên chưa nhuốm những nét bụi trần ai:

Chim chóc hót những ngày như mở hội

Thơ chúng mình trinh khiết tựa sương trong…

(Trên Giòng Sông Trắng- NHLD)

Rồi sau cuộc chiến, người lính ấy trở về, lên tận đầu nguồn thanh vắng ấy, không còn làm thơ nữa mà chỉ lấy lá để thả đời trôi. Nắng vẫn vàng, dòng sông vẫn trắng, nhưng không còn ai là người để vớt hồn anh nữa:

Sau cuộc chiến tìm về nguồn thanh vắng

Thơ không làm, lấy lá thả đời trôi

Nơi cuối giòng vẫn nắng vàng sông trắng

Không còn người âu-yêm vớt hồn tôi

(Trên Giòng Sông Trắng- NHLD)

Lời thơ thật đẹp, thật nhẹ nhàng, ý thơ thanh thoát, chỉ nghe phảng phất một nỗi buồn man mác, nhẹ nhàng, không bi lụy. Có lẽ bây giờ trong con người ấy, trong người lính ấy hay trong nhà thơ NHLD ấy, đã tìm được cho mình một cõi vắng thanh thản và bình yên trong tâm hồn và trong cuộc đời…Những bài thơ buồn của một quá khứ nặng nề đã được anh thả trôi ra biển cả trong một buổi sáng mùa Xuân…

Lê Công Dzũng

Đông Bắc Mỹ, 15 tháng 9, 2014

Xin mời vào nghe trên youtube :

Tiếng Gọi Phương Đông 1:

Tiếng Gọi Phương Đông 2:

*BÀI ĐĂNG HX:

Leave a Reply

Your email address will not be published.