Và những ngày sau đó trên quê hương

Tiếp theo (Yến Lan Qui cố hương)

Trích Hồi ký “về người cha thi sĩ”

Ngày mới về; tất cả đã thay đổi; con sông nước trong xanh cạnh nhà bác Sáu Mai; xưa má thường ra giặt giũ; nay khô cạn, trơ sỏi đá, rác rến lấp đầy một nửa. Chiến tranh đã xóa đi nhiều dấu ấn thời trai trẻ của nhà thơ. Hoài niệm và thực tiễn cứ đan xen, chập chờn thực hư, nhớ nhớ, quên quên. Rồi, cảnh sống thực tế trong mỗi gia đình hiện ra. Nói đâu xa, nhà chị dâu (vợ bác Sáu) có thằng cháu nội vì trốn lính, sống chui rúc dưới hầm, lâu ngày bị phù, người xanh mướt, bẩn thỉu, ngô nghê, nghiện rượu; không việc, không tiền, xin được đồng nào của dượng thì bỏ vào rượu đồng ấy; hơn bốn mươi tuổi chỉ làm nhà “báo đời” vào mẹ già quá 70.  Tất cả điều đó như muốn xô dạt ý nghĩ trụ lại quê trong ba tôi ra xa. Song le, nghĩ đi nghĩ lại tình quê lại choán hết tâm hồn ông – thật là một sự đam mê khó tả:  

Bình Định đây, từng sợi tơ ngọn tóc

Vẫn chứa chan, tin tưởng tự bao giờ

……………………………………                      

Xanh sắc lại, mênh mông trời rộng mở

Hồn ta nay ước choáng cả không gian

Ơi Bình Định, từ con tim ấp lửa.

Bừng lên – bừng, thành một cuộc hoa đăng

Chiến tranh đã đi qua, nhưng còn đây, trước mắt nhà thơ là những cháu bé áo quần xộc xệch, mặt mủi lem luốc nhặt từng mảnh phế liệu; cụ thể và đau xót hơn, đó là “chút chít trẻ con lai”. Nó là chứng nhân của tội ác chiến tranh, là nỗi đau không hình hài phải chịu bao hệ lụy của cuộc chiến, xót xa lắm! Chúng là hình ảnh của quá khứ và là hình ảnh sống động của tương lai, bởi chúng là con người bằng xương bằng thịt làm tim ông nhói đau.

Vỏ chai, họp găm đau lòng hố cỏ

Tiếng xới tìm chút chít trẻ con lai…

Song, với cái nhìn kết hợp giữa tinh yêu và sự tiếp cận mọi bối cảnh người, vật ở nhiều góc độ, nhà thơ cảm nhận được từ sự mạnh mẽ lớn lao đôi khi thể hiện rõ ràng, tinh tế nơi cái nhỏ bé, bình thường. Thời đại mới với bao thay đổi vĩ đại của dân tộc đang diễn ra, hình ảnh trong thơ ông vẫn là cuộc sống mang tinh thần thời đaị, trên hết là cuộc sống mới đang về trên quê hương:

Lớp học bình dân đông theo tiếng kẻng

Nét chữ cong nghiêng hoa lúa đầu mùa

Kẻ tóc bạc tay dây đầy mực tím

Miệng ráp vần như trẻ lại bi bô

Những xúc cảm dạt dào từ trong sâu thẳm; bỗng trào lên trong nhà thơ một sự giao hòa thân thiết lạ thường giữa người và thiên nhiên. Mỗi gốc cây, mỗi tiếng trẻ thơ đều gợi cho ông nỗi nhớ về tuổi thơ đã đi qua: “Thị trấn này tuy nhỏ nhưng nó đã ăn sâu vào máu thịt tôi một cách sâu nặng, thiêng liêng, khó giải thích được”

Cây me mẹ tựa

Từ bữa ra đi chị ẵm bồng

Nay về trẻ xóm gọi bằng ông

Bạn xưa còn có cây me cụt

Mưa xói mòn nơi mẹ tựa trông

Việc chọn quê làm nơi dừng chân của ba tôi đã gây không ít thắc mắc đối với các nhà báo  “Thưa ông, sau ngày giải phóng Miền Nam, ông thừa sức tìm cho mình một nơi ổn định, tại Thành Phố Hồ Chí Minh hay một thành phố khác, điều kiện sống tốt hơn”.

Đây cũng là câu hỏi mà gia đình tôi từng đặt ra. Khi bị hỏi dồn, ông chỉ im lặng; bởi có ai thấu được tâm sự còn ẩn trong trái tim già nua của ông

Nhìn nhau cho tạng mặt mày

Hành trình còn một quãng này nữa thôi                                                  

Sơn Thanh Thủy Tú qua rồi

Chỉ còn suối trũng đá lồi đợi ta

Chần chừ bước nhọc khó xa

Ngày thời ngắn ngủi cái già hẩm hiu

Hay vì gốc gác cội nguồn của tình thân ruột thịt, máu mủ :

Mười tám năm xa phần mộ mẹ

Chị gần, sức yếu khó tìm thăm

Thị trấn An Nhơn nghèo, nhỏ bé, bình dị là vậy, nhưng là ngọn lửa âm ỉ cháy mãi trong tim người thi sĩ ấy.  Đã có bao nhiêu cảnh, vật trở thành hồn quê trong thơ ông? Về cảnh thì muôn màu sắc, về tình thì mênh mông. Một khúc sông thân quen bị lãng quên để rồi một ngày gặp lại hóa thiêng liêng cao quí:          

Sông vẫn sông xưa nước đổi nguồn

Uống vào khang khác vị quê hương                                                                               Chút vì tuổi trẻ từng bơi lặn

Kỷ niệm hòa vào hóa nhớ thương

(Sau một công trinh Thủy lợi- An Tường 1989)

Nhà thơ không chối bỏ quê, song lại chối từ tất cả yêu cầu của con và lời khuyên của bạn.  Ông biết quá đi chứ! đô thị luôn là sức hấp dẫn đối với con người về tinh thần, vật chất; nhất là ở tuổi gần đất xa trời như ông. Nhưng Tình quê ở trong ông rất cụ thể và thực tế, ông có thể nắm bắt đưọc.

Những ngày mới về, phát hiện người cạnh nhà đã chiếm của mình 0,3m dọc, 13m dài; má thì cằn nhằn bảo ba kiện lấy lại, còn ba can ngăn “Bà đừng làm vậy mếch lòng láng giềng, người ta sẽ bảo cán bộ ở Bắc mới về đã lo giành đất của dân, thôi chịu thiệt chút xíu mà được lòng bà con lối xóm…”; dẫu uất ức nhưng má tôi đành ngậm đắng cay cho làm ngọt.

“Khác thể phần em sao tằn tiện

Một đời mắt lệ chỉ rưng rưng”

Cậu Ba Thành vừa là bạn học, vừa là anh vợ, lại là đồng nghiệp; đã cùng nhau dẫn đầu đoàn dân quân đi cướp chính quyền huyện về trao cho Cách mạng. Trước khi đi tập kết, ba gửi chiếc rương đựng toàn bộ bản thảo, ảnh và những sáng tác từ trước đến khi đi tập kết, nhờ giữ hộ hai năm sau về nhận lại. Nhưng cậu sợ người ta biết có quan hệ với “Cộng sản Miền Bắc” đã đem đốt hết những đứa con tinh thần đó của ba. Dù tiếc nhưng ba không trách cậu, trái lại, ông nhìn thấy cảnh sống của cậu mà cảm thương: không lương, không việc, con đông, túng bấn, bệnh hoạn mà không tiền mua thuốc. Tới thăm thấy cậu nằm bẹp trong góc tối, ôm ngực ho khù khụ, người như ma đói; ông viết thư ngay vào TPHCM cho tôi, lời lẽ thật thống thiết khiến tôi không nỡ từ chối:

“Con ơi! làm cách nào giúp cậu Ba! Cậu ốm nặng lắm rồi, chẳng tiền thuốc. Tới thăm cậu, ba nhìn tấm thân còm dính chặt trên gường mà thương quá. Con cố tìm cách giúp cậu. Ba biết nhà mình ai cũng khó nhưng còn có nhà nước lo, cậu có ai đâu! vậy con hãy vì “lá rách đùm lá nát” con nhé.

Nhận được thư, tôi liền đi tìm chị Ba, bà con xa của cậu, ở cách tôi vài trăm thước. Hai chị em bàn nhau, mỗi người chút đỉnh mua đường, sữa, thuốc và ít tiền, gửi xe cơ quan “Animex” ra cho cậu. Cầm gói quà “của người phúc ta”, ba tôi hăm hở tới đưa cậu liền. Sau đó, viết thư báo cho tôi: “Cậu con nhận được quà, cảm động khóc hu hu; nước mắt tràn ướt đôi gò má hóp, thương lắm. Cậu xuýt xoa: Trời ơi! quí hóa quá dượng ơi, quí quá! Từ tấm bé đến giờ tôi chưa được ai cho quà nhiều thế này. Nếu có viết thư báo cho cháu, dượng chuyển lời cảm ơn dùm tôi nhé!”

Cứ mỗi độ hè về, chúng tôi ở Sài Gòn ra, Hà Nội vào, đứa nào có con thì dẫn về thăm ông bà. Cảnh vật, cuộc sống ở đây khiến tôi đã tìm lại được thời ấu thơ của mình. Hồi đó, tôi và bạn cùng lứa, trần truồng ra tắm mưa, đẫm mình theo dòng nước đục từ trên cao đổ xuống; thích lắm. Hè, nắng chang chang lên đồi hái sim, ổi, chùm chày, dú dẻ v.v…vô tư nghịch ngợm là thế…

Nơi đây, tuy đất nước đã vẹn toàn nhưng người dân phố thị còn quá nghèo, có người không cơm ăn, áo mặc; kẻ ăn xin ngồi dọc theo lối vào cửa chợ. Ba má tôi, dù có lương hưu, song chẳng thấm vào đâu. Nhu cầu đơn giản về sinh hoạt, nước sạch, chỗ vệ sinh rất tệ. Nhà ở giữa chợ, ngày phiên phải hứng chịu mọi thứ từ trong ấy phát ra: tiếng ồn, mùi hôi tanh của cá mắm, mùi hoa quả hư, mùi phân gia súc, gia cầm v.v..

Vấn đề sinh hoạt giải trí cho thanh, thiếu niên không có gì; chỉ ăn quà vặt bày bán trước cửa chợ mỗi tối là xôm tụ nhất. Nói tóm lại, nhịp sống, lối sống những ngày sau giải phóng rất đơn điệu, nhàm chán! Thế mà, không hiểu sao lại có sức giữ chân ba tôi lưu lại đến thế?! Nếu nói ông hoàn toàn không có sự lựa chọn giữa đi hoặc ở là phủ nhận sự thật. Sau vài năm, viết thư ra Hà Nội cho con, cho bác Khương Hữu Dụng, ông đã tâm sự:

Tình hình trong này hơi buồn vì không khí, con người, cách nhìn chưa hòa nhịp – thật cũng ái ngại…”

Tuy nhiên, khó khăn thì khó khăn, vẫn hơn những ngày sống xa quê! Và bất luận thế nào, chúng ta cũng phải thành thật với chính mình. Những năm đầu mới giải phóng; người dân  thị trấn muốn làm người tốt cũng thật khó. Thị trấn bé nhỏ này là một xã hội thu gọn; có đủ cả; nhiêu khê, rối rắm và hủ lậu! Mới đầu, người dân lâu đời ở đây đều tin yêu, tôn trọng cán bộ Rừng về hay Bắc vô. Nhưng ở chế độ nào cũng có người tốt, kẻ xấu, hách dịch,  cửa quyền, áp đặt v.v.. làm rạn nứt niềm tin yêu và quí trọng của người dân, khiến cho số người trước đây có dính dáng với chế độ cũ, có tâm trạng khá phức tạp; vừa vui cái vui chung của đất nước được vẹn toàn, nhưng lại dè dặt, thận trọng giữ kẻ từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói vì mình là người có tội, khiến họ phải tìm đường thoát thân.

Trong cảnh ngộ đó, có người sẵn định kiến với ba tôi, giờ họ tìm cách đâm bị thóc, chọc bì gạo cho bỏ ghét. Họ cảm thấy không yên lòng về mối quan hệ của ông với bác Quách Tấn, vì cho rằng bác làm việc cho Chế độ Cộng hòa Miền Nam VN? Một vấn đề nữa là tin tức về hành động rất con người của ba tôi khi một mình lặng lẽ đi sau linh cữu cụ Khôi đã thành dấu hỏi sau cái tên Yến Lan, để rồi cọ xát mỗi khi xét quyền lợi lớn, nhỏ cho ông. Họ lý luận logic là: “Tạì sao ở Miền Bắc, khi Phan Khôi qua đời, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, lúc đó, có hàng trăm người mà chẳng một ai ngoài gia đình Phan Khôi đưa đám ông, mà chỉ mỗi Yến Lan dám đi sau linh cữu ông đến nơi an nghĩ cuối cùng. Họ bảo Phan Khôi là người cầm đầu nhóm VNGP phản Đảng phản dân. Vậy có thế nào đó Yến Lan mới thế chứ?” Họ không những canh me ba tôi, mà cả với má tôi. Nhìn thấy bà trong buổi họp Tổ dân phố, có người hạch sách “Sao lại mời bà này đến họp làm gì?”. Nghe má kể mà tôi tức cả ruột. Sao người ta cố chấp đến thế? bây giờ là thời nào mà ấu trĩ vậy? Nói thật, ở Khu phố tôi, ở Cư xá Thanh Đa tại TP.HCM; mỗi lần tổ chức họp dân, lãnh đạo Phường, khu phố tìm mọi cách để dân đi họp đông đủ, nghe phổ biến nhiều vấn đề trong xã hội; nào giấy mời, loa miệng rả họng mà chỉ có mấy ông Tổ Trưởng, tổ Phó, và vài cán bộ hưu trí đến dự. Đằng này, má tôi, tinh thần tự giác cao, chẳng cần động viên, chẳng cần khuyến khích họp được 10.000đ thì bị cấm! Vì thế, bà muốn ra Hà Nội hoặc vào Sài Gòn sống với con cháu. Ngược lại ba tôi cứ khăng khăng điệp khúc “Bà đi đâu thì đi, tôi chỉ ở quê thôi!” Tình yêu quê của ba tôi quá sâu nặng, ảnh hưởng không nhỏ đến con cháu !

Nhà thơ Thanh Thảo nhớ lại: Ngày Yến Lan còn khoẻ, thỉnh thoảng tới thăm ông tôi còn thấy những gánh hàng quê mà bà con buôn bán ở chợ gửi lại tại nhà ông khi chợ tan, chờ hôm sau bán tiếp. Vợ chồng Yến Lan vui lòng cho họ gửi mà không đòi một xu lệ phí, không giống như bây giờ ai có xe ô tô hay xe máy gửi tháng đều phải đóng những khoản tiền khá đáng kể. Từ khi ở 37 Hàng Quạt-Hà Nội về hưu sống tại chợ Bình Định này, nhà Yến Lan vẫn nghèo. Nếu ngày ở Thủ Đô, thời túng bấn, nhà Yến Lan vẫn hàng tháng giành dăm ký gạo “hỗ trợ” cho nhà thơ Quang Dũng-một người bạn thân và làm cùng cơ quan nhà xuất bản Văn Học-vì Quang Dũng vốn người to lớn luôn cảm thấy…đói khi ăn suất gạo tiêu chuẩn 13 ký/tháng, thì khi về Bình Định, dù gạo tiêu chuẩn vẫn còn, nhưng không ai nhờ đó mà…giàu lên được. “ Không được sống xin cho cùng được thở” (Bình Định 1935), tôi đọc câu thơ này mà thấy xa xót trong lòng, một câu thơ như vận cả vào đời thơ Yến Lan. Có cảm giác như Yến Lan khổ cả đời, cho tới khi ông nhắm mắt lìa trần, cái nghèo cái khổ cũng chưa buông tha…”.{jcomments on}

Leave a Reply

Your email address will not be published.