Bài III Những Niềm Tin Cốt lõi của Người Bình dân Việt Nam Như Là Những Giá trị Nền tảng cho Cuộc Sống (Tiếp theo Bài II)

Tác giả: Thầy Nguyễn Văn Thái

Tronng bài I, chúng tôi trình bày niềm tin của người bình dân Việt Nam vào trí thông minh như là một công cụ để thực hiện những lựa chọn thích hợp cho cuộc sống. Chủ điểm của bài II là niềm tin vào giá trị của cần lao, một phương tiện tạo nên những sản phẩm vật chất cần thiết cho cuộc sinh tồn. Nhưng ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn có những nhu cầu tinh thần. Do đó, bài này (bài III) tập trung vào niềm tin của người bình dân Việt Nam vào những giá trị tinh thần tiêu biểu nhất. Khi nói đến những giá trị tinh thần, người ta không thể không nói đến ảnh hưởng của đạo Nho về quan điểm Nhân Nghĩa. Nhân Nghĩa là phạm trù chủ đạo của Nho giáo. Và Nhân Nghĩa của Nho giáo là một ý niệm trừu tượng. Khi Tử Trương hỏi Khổng Tử ý nghĩa của từ “Nhân” thì Khổng Tử định nghĩa bằng cách khai triển nội hàm ngữ nghĩa của từ “Nhân” với 5 từ trừu tượng khác, theo phương pháp quy nạp. Và khi được hỏi đến ý nghĩa của từ “Nghĩa” thì Khổng Tử trả lời là “đạo lí”, là “lẽ phải” trong lúc “đạo lí”, “lẽ phải” cũng chỉ là những từ ngữ mang tính trừu tượng, chưa được cụ thể hoá bằng những thí dụ về hành động trong cuộc sống. Khổng Tử còn dùng phương pháp diễn dịch bằng cách đối nghịch ngữ nghĩa, như “Nghĩa” đối nghịch với “Lợi”, để làm sáng tỏ ý nghĩa của từ “Nghĩa”. Đạo Nhân của Khổng Tử bao trùm Nghĩa trong lúc Mạnh Tử và nhất là Tuân Tử lại đặt Nghĩa ngang hàng với Nhân theo quan điểm là không những Nghĩa đối nghịch với Lợi mà còn có nghĩa là lẽ phải, điều nên làm theo bổn phận được đề xuất từ góc độ “lí” còn Nhân, theo Tuân Tử, nghiêng về “đức” hơn1 . Tuy nhiên, những lối giải thích này chỉ là một cuộc phiêu lưu không có điểm ngừng, đi từ từ ngữ trừu tượng này đến từ ngữ trừu tượng khác mà trong thực tế chỉ nên để dành cho những học giả chuyên cứu về lí thuyết hơn là cho những người bình dân.

Người bình dân Việt Nam tiếp nhận Nhân Nghĩa bằng trực giác và thường hiểu Nhân Nghĩa như là một phạm trù chung trong ý nghĩa Nhân Nghĩa là tình thương người cùng với trách nhiệm và bổn phận đối với người mình thương yêu.

 

Mặc dù Nhân Nghĩa là quan điểm chủ đạo của Nho giáo, chúng ta cũng không thể kết luận Nhân Nghĩa là nguyên nhân duy nhất của niềm tin của người bình dân vào tình người vì Phật giáo cũng vinh danh tình người qua quan điểm Từ bi, và Công giáo qua quan điểm Bác ái. Thực ra, ai cũng biết được cái thiện và cái ác luôn luôn hiện hữu song hành trong cuộc sống, và theo lẽ thường (common sense), sinh tồn đòi hỏi con người phải chọn “thiện” (bao gồm tình người): “cải ác vi thiện”; còn “ác”, theo kinh nghiệm thực tế, chỉ gây đau khổ và phiền não. Do đó, tình thương là một yếu tính đương nhiên của nhân sinh mang tính thuyết phục. Trong bối cảnh này, người bình dân Việt Nam đã cổ vũ và vinh danh tình yêu.

 

Thương ngưi, ngưi li thương ta,

Ghét ngưi, ngưi li hoá ra ghét mình.

 

u con ngưi, mát con ta.

 

Yêu ngưi mi đưc ngưi yêu ta.

 

Và họ chê bai những người giàu có, nhưng lại có tính bủn xỉn và ca tụng những người dù nghèo khó, nhưng vẫn có lòng thương người

 

Nhng ngưi lúa đn, tin kho,

Rut bng chc chn (si ch), ming to bng tri.

 

Nhng ngưi đói rách t tơi,

Rng lòng đùm bc nhng ngưi sa cơ.

 

Và tiêu chuẩn cần và đủ của tình người là yêu người như yêu chính bản thân:

 

Thương người như thể thương thân

 

Một yếu tính khác của tình người là yêu cầu xã thân, nghĩa là hi sinh cho tha nhân. Yêu cầu này dựa trên quan niệm nhân quả: mình có hi sinh cho người khác thì người khác mới hi sinh cho mình:

 

Mình vì mọi người, mọi người vì mình.

 

Người bình dân Việt Nam cổ xuý tình người không khẩn thiết là vì đã thấm nhuần tinh thần Nho giáo mà rất có thể còn vì kinh nghiệm thực tế hằng ngày của họ cho họ thấy sức mạnh của tình yêu cũng như của hận thù. Một khi người ta đã yêu thì cái gì cũng tốt, cũng đẹp; khi đã ghét thì cái gì cũng xấu xa, không thể cứu vãn được.

 

Khi lành qut giấy cũng cho,

Khi dqut mo cũng đòi.

 

Yêu ai thì bc lên tri, ghét ai thì dìm xung đt.

 

Yêu, chia tin chia thóc; không yêu, cm cc, rào sân.

 

            Lúc thương nhau, cho đường thêm bánh,

            Khi ghét nhau, tay đánh miệng la.

 

            Thương thì củ ấu cũng tròn,

            Không thương thì quả bồ hòn cũng méo.

 

            Lúc ghét, bẻ ngay hoá vẹo,

            Khi ưa, vẽ méo nên tròn.

 

            Không ưa, đ tha cho xu.

 

            Không ưa thì dưa có giòi.

 

            Yêu nhau xé lụa may quần,

            Ghét nhau kể nợ kể nần nhau ra.

 

            Yêu nhau, yêu cả đường đi,

            Ghét nhau, ghét tới tông ti họ hàng.

 

            Yêu nhau thì nói quá ưa,

            Ghét nhau nói thiếu, nói thừa như không.

 

Và họ ý hội được là tình yêu có thể giải quyết được tất cả mọi chuyện dù khó khăn đến mức nào:

 

Yêu, nói liu cũng đúng.

 

Đ là hòn đt, ct nên ông Bt.

 

Yêu nhau, yêu cả đường đi.

 

Yêu nhau mọi việc chẳng nề,

            Du trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.

 

            Yêu nhau, mấy núi cũng leo,

            Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.

 

Yêu nhau, tam tứ núi cũng trèo,

Thất bát khe cũng lội, tứ cửu tam-thập-lục đèo cũng qua.

 

Lỗ mũi em thì tám gánh lông,

Chồng yêu, chồng bảo tơ hồng Trời cho.

Đêm nằm thì ngáy o o,

Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.

Đi chợ, thì hay ăn quà,

Chồng yêu, chồng bảo vnhà đỡ cơm.

Trên đầu những rác cùng rơm,

Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu.

 

Trong Nho giáo, Nhân Nghĩa là một phạm trù đạo đức được áp dụng một cách tổng quát trong những quan hệ với tha nhân. Tuy nhiên, người ta không thấy thí dụ cho những trường hợp cụ thể. Nhân Nghĩa, trong cuộc sống thực tế của người bình dân Việt Nam, đặc biệt được thể hiện nhiều nhất và cụ thể hơn cả trong quan hệ lứa đôi và quan hệ vợ chồng. Trong bối cảnh của những mối quan hệ này, người ta có thể nhận thấy bàng bạc trong văn chương bình dân người đàn bà thường chú trọng đến phần “tình yêu” (Nhân/Nhơn) hơn và dành phần “nghĩa” (trách nhiệm và bổn phận) cho người đàn ông.

 

Ngi mà dt tm tơ lòng,

Chàng mong ch nghĩa, thiếp mong ch tình.

 

Thiếp trao chàng câu ân, câu ái,

Chàng trao thiếp câu ngãi, câu nhân.

C bn câu hp li Tn vi Tn nên duyên.

 

_Gp lúc đêm khuya trăng t,

Hát đôi câu đng rõ nhân tình.

Phòng loan thc n mt mình,

Hay là đã kết duyên tình cùng ai?

_Vng tai nghe ai hát,

Lòng đây bát ngát ni phin.

Cô phòng gi d thuyn quyên,

Ch nơi nhân đo, em nguyn trao thân.

 

Su ai mt n không vui,

Hay su duyên n, nói tui su giùm.

Rung sâu cy lúa đng chùm,

Biết ai nhơn đo ch giùm làm ơn.

 

Cu mô cao bng cu danh vng,

Nghĩa mô nng bng nghĩa chng con.

Ví du nưc chy đá mòn,

Xa nhau nghìn dm, lòng còn nh thương.

 

Rut tm đày đon tơ vương,

Thy anh có nghĩa, náu nương đi ch.

 

Đm bò ming chu sáng trưng,

Thy mình có nghĩa, lòng ưng d đành.

 

Cây đa cũ, bến đò xưa,

Ngưi mà có nghĩa, nng mưa cũng ch.

 

Tuy nhiên, thông thường người ta thấy từ Nghĩa được dùng lẫn lộn với từ Nhân và cụm từ “Nhân Nghĩa” được dùng như một tập hợp ngữ nghĩa đặc biệt liên hệ đến tình yêu vợ chồng với hàm ý trách nhiệm và bổn phận của vợ chồng đối với nhau.

 

Không cn câu con cá di,

Cn câu anh cm, câu ngãi câu nhân.

 

Ngưi còn thì ca cũng còn,

Min là nhân ngãi vuông tròn thì thôi.

 

c trong giếng đá, cá li thy hình,

Thy em có nghĩa, đng tình anh thương.

 

Áo rách có cách, anh thương,

Nón ci có nghĩa, anh thương nón ci.

 

_Ngó lên da ngã ba cây,

Thy em khôn khéo, mun gy nghĩa nhơn.

_Nghĩa nhân ba gánh tràn tr,

Gánh t Phù M, gánh v Bng Sơn.

Em ngi, em k công ơn,

Bc vàng nng ít, nghĩa nhơn nng nhiu.

 

Hết du đèn cháy ti tim,

Mt ngày gá nghĩa cũng nim phu thê.

 

Mặc dù người bình dân Việt Nam ít khi trực tiếp đề cập đến yêu cầu trách nhiệm và bổn phận trong quan hệ vợ chồng, nhưng khi họ nói về nhân nghĩa, người ta hiểu ngay là sự nối kết yêu đương hàm ý đòi hỏi vợ chồng không nên phụ rẫy, lìa bỏ nhau cũng như sự kiện họ vinh danh chung thuỷ cho phép người ta hiểu rằng nhân nghĩa bao gồm trách nhiệm và bổn phận của vợ chồng là sung sướng cùng hưởng, cam khổ cùng chịu và phải giúp nhau đi trọn cuộc đời.

 

Sau đây là những câu ca dao cho thấy, trong quan điểm của người bình dân, đạo vợ chồng mà nền tảng là nhân nghĩa đòi hỏi vợ chồng không nên phụ rẫy, lìa bỏ nhau:

 

Cu Đôi mà tháp cũng Đôi,

D chi nhân nghĩa mà ri đưc sao.

 

Con chim kêu thương, con gà gáy nh,

Đo v nghĩa chng, ai n đành xa.

 

Đt tay mt chút còn đau,

Hung chi nhân nghĩa, lìa sao cho đành.

 

Đã rng là nghĩa v chng,

Du cho nghiêng núi, cn sông chng ri.

 

Tôi t xét công, v chng xét nghĩa.

 

Trăm năm ai ch b ai,

Ch thêu nên gm, st mài thành kim.

Trăm năm lòng gn, d ghi,

Du ai đem bc đi chì ng không.

 

Sông cn, bin cn, li nguyn không cn,

Núi l mòn, nghĩa bn không quên.

Đưng mòn sáng xung chiu lên,

Dn ai hãy nh đng quên nghĩa tình.

 

Đêm hè gió mát trăng thanh,

Em ngi ch lt cho anh chp thng.

Lt chng mng sao thng đưc tt,

Duyên đôi ta đã trót cùng nhau,

Trăm năm th nhng bc đu,

Ch ham phú quý, đi cu trăng hoa.

 

R nhau xung b mò cua,

Đem v nu qu mơ chua trên rng.

Em ơi! Chua ngt đã tng,

Non xanh, nưc bc, ta đng quên nhau.

 

Trăng kia khi khuyết, khi tròn,

Li th bin cn, non mòn, ch sai.

 

Đã rng là nghĩa v chng,

Du cho nghiêng núi, cn sông, chng di.

 

Ra v lòng li dn lòng,

Chanh chua ch ph, ngt bòng ch ham.

 

Hai ta như trái đu quyên,

Dù sinh, dù t cũng nguyn có nhau.

Trăm năm tc d ghi li,

Du mà bin cn, non di đng quên.

 

Dãy dc toà ngang, giàu sang có s,

Kim Long, Nam Ph, nưc đ v Sình.

Như đôi đa mình, chút nghĩa ba sinh,

Có làm răng (sao) đi na, chúng mình không b nhau!

 

Đôi ta như khoá vi chìa,

Trn nim chung thu, đng lìa mi hay.

 

Mm cua chm vi đt vng,

H xa mc h, ta đng b nhau.

 

Biết nhau t thu buôn thng,

Trăm chp, nghìn ni, xin đng b nhau.

 

Ci than lem luc vi tình,

Ghi li vàng đá, xin mình ch quên.

 

sao cho vn cho toàn,

Giao ngôn ch ph, nghĩa vàng ch vong.

 

Tay nâng chén mui, đĩa gng,

Gng cay, mui mn, xin đng b nhau.

 

Thành Hà Ni năm ca, chàng ơi!

Sông Nhc chy phân đôi mt dòng.

Đôi ta chua ngt đã tng,

Thành cao, sóng mnh, cũng xin đng quên ai.

 

Lìa cây, lìa ci, ai n lìa hoa,

Lìa ngưi bi bc ch đôi ta đng lìa.

 

Thu chung em gi trn li,

Chết đi thì chu, lìa đôi không lìa.

 

Mt miếng tru, năm ba li dn,

Mt chén rưu năm by li giao.

Anh ch nghe ai sóng b ba đào,

Em đây gi nim tiết hnh, anh ch lãng sao em bun.

 

Trăng lên va ti mái hiên,

Thiếp thm, chàng phin, có nh hay quên ?

Làm ngưi, ph bc sao nên,

Trông xung thn đt, trông lên thn tri.

Nói ra, d gi ly li,

nh đênh mt bin chân tri qun bao.

 

Em ơi! Ta nguyn nhau cùng,

Răng long, tóc bc, ta đng quên nhau.

 

Thương nhau, ct tóc mà th,

Khó nghèo cũng chu, ch h ph nhau.

 

Đàn tranh sánh vi đàn cm,

Mt đây, mt đy, đáng trăm lng vàng.

Còn đang tc đá ghi vàng,

Ngô đng n b phưng hoàng ngn ngơ.

 

Ai mà li li nguyn,

Xung ghe, ghe úp; xung thuyn, thuyn trôi.

 

Còn bằng chứng về sự vinh danh chung thuỷ thì rất phong phú, nhất là trong ca dao. Thực ra, yêu cầu không nên phụ rẫy, lìa bỏ nhau và cổ xuý chung thuỷ chỉ là mặt trái và mặt phải của một đồng tiền, nhưng khi người bình dân nói về chung thuỷ, sự phát biểu mang nặng tính tích cực hơn.

 

Đn cây, ai n dt chi,

Đo chng, nghĩa v, gin ri li thương.

Du rng da trng, tóc mây,

Đp thì đp vy, d ny không ưa.

V ta dù có quê mùa,

Thì ta vn c sm trưa vui cùng.

 

Dù cho cn nưc Thu Bn,

Hi Vân hoá cát, bin Đông thành đèo.

Dù cho cay đng trăm chiu,

ng không lay đưc tình keo nghĩa dày.

Dù cho…cho đến bao gi,

Lòng đây, d đy vn trơ như đng.

 

Tháp kia còn đng đ đôi,

Cu kia đ cp hung chi tôi vi mình.

Tháp tri nng sương, cu nương st đá,

Du ngưi thiên h tiếng ngã li nghiêng,

Cao thâm đã chng lòng nguyn,

Còn cu, còn tháp, còn duyên đôi đa mình.

Non sông nng gánh chung tình.

 

Bin sâu cá li bit tăm,

Du ch, du đi, trăm năm cũng ch.

Sông sâu cá lưn l đ,

Du trông, du đi, quyết ch trăm năm.

 

Gương không có thu gương m,

Thuyn không có lái, lng lơ gia dòng.

Mong sao nghĩa thu tình chung,

Cho thuyn cp bến, gương trong ngàn đi.

 

Trăm năm k mt ngưi còn,

Gió a gi trn lòng son đi.

 

Trăm năm ý quyết mt lòng,

Dù ai thêu phng v rng mc ai.

Du cho đá nát vàng phai,

Trăm năm duyên n chng sai chút nào.

 

V chng là nghĩa phu thê,

Tay p má k, sinh t có nhau.

 

Trăm năm ưc hn chung tình,

Trên tri dưi đt ch mình vi ta.

 

Vàng ròng vào la chng phai,

Búa rìu sm sét, không phai ân tình.

 

V chng nghĩa nng, tình sâu,

Thương cho đến thu bc đu vn thương.

 

Tay cm đĩa mui sàng rau,

Thu chung như nht, sang giàu mc ai.

 

Dù ai lp bin, di non,

Lòng ta vn gi st son cùng ngưi.

 

Dù cho núi l non mòn,

Con tm đến thác vn còn vương tơ.

 

Đói no mt v, mt chng.

 

Đưng dài nga chy bit tăm,

Ngưi thương có nghĩa, trăm năm cũng ch.

 

Anh đi đng y xa xa,

Đ em ôm bóng trăng tà năm canh.

c non mt gánh chung tình,

Nh ai, ai có nh mình hay chăng?

 

Đêm khuya trăng t gió thanh,

T b vng lng cùng anh da k.

Cùng nhau ct mt tiếng th:

Sơn cùng thu tn ch h sa tâm,

Nguyn cùng nhau hai ch st cm.

 

Ngưi thương có nghĩa, trăm năm cũng v.

 

Bao gi cn nưc Đng Nai,

Nát chùa Thiên M mi sai li nguyn.

 

Mui mn ba năm, mui hãy còn mn,

Gng cay chín tháng, gng hãy còn cay.

Đo nghĩa cang thưng ch đi, đng thay.

Du có làm nên danh vng, hay ri có ăn mày, ta cũng theo nhau.

Theo nhau cho trn đo Tri,

Du rng không chiếu, tri tơi mà nm.

 

cho chung thu vn toàn,

Lên non, lên dõi; xung thuyn, xung theo.

 

Th nguyn sau trưc nht ngôn:

Sng nm chung gi, chết chôn chung m.

 

Mong sao nghĩa thu tình chung,

Cho thuyn cp bến, gương trong nghìn đi.

 

Núi Mu Sơn cao bao nhiêu trưng,

Sông L Thu sâu by nhiêu tm.

Dng thuyn đi bn tri âm,

Non mòn bin cn, quyết không phai lòng.

 

V chng đng tch đng sàng,

Đng sinh đng tu mang đng ln.

 

V chng gi xương, gi tht.

 

Mt d, mt lòng.

 

Đôi ta như áo vi màu,

Trăm git, nghìn gi, dãi du không phai.

 

Tri cao b rng thinh thinh,

sao cho trn chút tình phu thê.

 

Yêu nhau rut héo, xương mòn,

Yêu nhau đến thác vn còn yêu nhau.

 

Yêu nhau t thu má hng,

Đến khi má tóp, lưng còng, vn yêu.

 

Li th chng có c non,

ng tan ngc nát vn còn thương nhau.

 

Ai v ai mc ai,

Ta như du đưm thp hoài năm canh.

 

Trăm năm ghi tc ch đng,

Dù ai thêu phng, v rng, mc ai.

 

Trăm năm ai ch b ai!

Ch thêu nên gm, st mài nên kim.

 

Tôi vi mình th trưc miếu ông,

Sng nm mt chiếu, chết chung mt m.

 

Trăng tròn ch có đêm rm,

Tình ta tháng tháng, năm năm vn còn.

 

Mong sao anh biến ra tm,

Em biến ra nng, ta nm chung chơi.

Khi nào cho hp hai hơi,

Nghiêng tai nói nh đôi li thu chung.

 

Ngu si cũng th chng ta,

Du rng khôn khéo cũng ra chng ngưi.

 

Xu xa cũng th chng ta,

Dù cho tt đp cũng ra chng ngưi.

 

Trăm năm gi vn ch tòng,

Sng sao thác vy, mt lòng mà thôi.

 

Chng em áo rách em thương,

Chng ngưi áo gm xông hương, mc ngưi.

 

Không thiêng cũng th bt nhà,

Du khôn, du di cũng là chng em.

 

Gi lòng bn cht vi chng,

Dù ai thêu phưng, v rng, mc ai.

 

Ca Tam Quan nưc cn bày c,

Sa Hunh khô đt, em mi t nghĩa anh.

 

Li em nói ra bng ba li th tht,

Như đinh đóng ct,

Như rìu ct vào cây.

Anh đng ngi gió, e mây,

ng cao ngt núi sao tày nghĩa nhân.

 

Mình v, tôi cũng v theo,

Sum vy phu ph, đói nghèo có nhau.

Dù khi đĩa mui, chén rau,

Thu chung ta gi, sang giàu mc ai.

 

Trăm năm không b nghĩa chàng,

Mc ai chn bc, đi vàng mc ai.

 

Trăm năm tưng rách còn th,

L duyên, chu l, quyết ch đi anh.

 

Trưng phu anh x nghĩa vuông tròn,

Ngàn năm lưu lc, d còn thương anh.

 

Ci than nhem nhuc vi tình,

Ghi li vàng đá, xin mình ch quên.

Chng nào mui ngt chanh thanh,

Em đây mi dám b anh ly chng.

 

Du mà đan gi th sông,

Trôi lên trôi xung, em cũng không b chàng.

Du mà ti bt lên quan,

Tôi em, em chu; ti chàng, em xin.

 

My năm em cũng xin ch,

Cm bng tóc bc như tơ cũng đành.

 

Mt lòng kết tóc, xe tơ,

Mt nim ch đi, ch ch mt anh.

 

Ba bn năm, tm tưng rách tôi cũng còn th,

Lòng tôi thương ai biết, d tôi ch ai hay.

 

Anh đng Nha Trang trông sang xóm Bóng,

Ánh trăng l mn sóng lăn tăn.

Gn nhau chưa kp nói năng,

Bây gi sông cách, bin ngăn ngi ngùng!

Bin sâu con cá vy vùng,

Sông sâu không dn dòng đưa thư.

Anh nguyn cùng em bao gi Hòn Ch b tư,

Bin Nha Trang cn nưc, anh mi t duyên em.

 

Chng nào bin n xa gành,

Cù lao xa sóng, anh mi đành xa em.

Chng nào bin cn thành ao,

Bc cu chiếc đũa mà trao ân tình.

 

Trên trăng dưi nưc, anh ưc mt li,

Dù trăng m, nưc cn, anh cũng không ri, ph em.

 

Dĩ nhiên là Nhân Nghĩa, trong quan niệm của người bình dân, không chỉ được giới hạn trong quan hệ lứa đôi, vợ chồng mà còn được gắn kết chặt chẽ với tình thương và bổn phận đối với cha mẹ. Tình thương này được thể hiện qua sự săn sóc, chăm lo thể chất và tinh thần cho cha mẹ khi cha mẹ còn sống cũng như hương khói khi cha mẹ đã khuất. Sự kiện này thông thường được gọi là “hiếu”. Tuy nhiên, ý niệm hiếu trong Nho giáo mang ý nghĩa bổn phận hơn là tình thương.

 

_Ch Trung, ch Hiếu, ch Hoà,

Hi trong ba ch, th cha ch nào?

_Ch Trung thì đ th cha,

Ch Hiếu th m, ch Hoà th anh.

 

Theo quan điểm của Nho giáo, “hiếu” là trách nhiệm và bổn phận của người con trai đối với cha mẹ, nhất là đối với cha. Nhưng trong lối sống của người bình dân, hiếu mang nhiều ý nghĩa thương yêu hơn là bổn phận, và nhất là hiếu với mẹ chuyên chở một tâm tình hết sức thắm thiết. Mặc dù trên danh nghĩa, hiếu là bổn phận của người con trai trong gia đình, nhưng trong thực tế tất cả mọi công việc săn sóc, chăm lo cho cha mẹ, cũng như việc thờ tự đều do người đàn bà trong gia đình đảm trách2. Không những thực hiện bổn phận hiếu thảo, người bình dân Việt Nam thể hiện ý nghĩa của từ Nghĩa không chỉ như là bổn phận mà còn mang nặng ý nghĩa tình cảm của yêu thương và của sự biết ơn lớn lao đối với cha mẹ.

 

Công cha, nghĩa m.

 

M cha trưng [trng] quá ngc vàng,

Đn bi sao xiết, muôn vàn công ơn.

 

Cha m nuôi con bng tri, bng b,

Con nuôi cha m, k tháng, k ngày.

 

Cha m nuôi con, bin h lai láng,

Con nuôi cha m, tính tháng tính ngày.

 

Nuôi con mi biết s tình,

Thm thương cha m nuôi mình khi xưa.

 

Ngó lên ngn núi Ba Non,

Công cha, nghĩa m, làm con phi đn.

 

Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa m như nưc trong ngun chy ra.

 

Nuôi con mi biết lòng m cha.

 

Không những người đàn bà đã thay chồng hoàn thành bổn phận đạo làm con mà còn chu toàn bổn phận làm mẹ và làm vợ trong gia đình như săn sóc con từ khi mới sinh, lo nội trợ, chợ búa, ăn mặc cho chồng con và trong nhiều trường hợp, cùng chồng làm việc đồng áng. Do đó, mặc dù thường có nhắc nhở đến công lao của người cha, nhưng người bình dân Việt Nam nhắc đến công lao của mẹ với một tình yêu và sự biết ơn hết sức đặc biệt.

 

Ngi bun nh m ta xưa,

Ming nhai cơm búng, lưi la cá xương.

 

Gặp anh đây, em hi giao hoà,

Thương em, anh có tưởng đến mẹ già em không?

 

Ch ưt m nm, ráo xê con li.

 

Lấy chi đền ngãi mẹ chừ,

u mang chín tháng vi dư mười ngày.

 

Lên chùa thấy Phật muốn tu,

Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đền.

 

Lên cao mới biết non cao,

Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.

 

c mt chy xuôi.

M nuôi con by lâu ri,

Nuôi con cho đến thành ngưi mi nghe!

 

M nuôi con bng tri bng b,

Con nuôi m, con k tháng ngày.

 

Cơm m thì ngon, cơm con thì đng.

 

Mt m nuôi đưc mưi con,

i con b m trong ngàn xót xa.

 

Ming ru, mt nh hai hàng,

Nuôi con càng ln, m càng thêm lo.

 

Tới nơi đây lỡ chợ, lỡ đò,

Xẻo cẳng tay nuôi mẹ, giã thịt bò mẹ xơi.

Mẹ thương con sa rơi nước mắt,

Nghĩ tới dâu hiền ruột thắt tận da,

Thôi hỡi con ơi! Cháo rau cho qua bữa, thịt với thà mà làm chi.

 

Trong bối cảnh văn hoá của từ “Nghĩa”, ngoài sự biết ơn đối với cha mẹ, sự biết ơn còn được biểu hiện rõ nét trong quan hệ giữa thầy và trò:

 

Gươm vàng rt xung h Tây,

ng cha cũng trng, nghĩa thy cũng sâu.

 

Mt ch nên thy, mt ngày nên nghĩa.

 

m cha, áo m, ch thy,

Nghĩ sao cho bõ nhng ngày ưc mong.

 

Con ơi ghi nh điu này,

Công cha, nghĩa m, công thy ch quên.

 

My ai là k không thy,

Thế gian thưng nói, đ my làm nên.

 

Không thy, đ my làm nên.

 

M cha công đc sinh thành,

Ra trưng thày dy hc hành cho hay.

Mun khôn thì phi có thy,

Không thy dy d, đ mày làm nên.

i năm luyn tp sách đèn,

Công danh gp bưc ch quên ơn thy,

Yêu kính thy, mi làm thy,

Nhng phưng bi bc, sau này ra chi!

 

Mun sang thì bc cu kiu,

Mun con hay ch, phi yêu mến thy.

 

Có trng thy mi đưc làm thy.

Có th thy mi làm đưc thy.

 

Mng mt tết cha, mng ba tết thy.

 

Nhân Nghĩa trong quan hệ anh em mang ý nghĩa tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, kính trên, nhường dưới.

 

Trên kính, dưi nhưng.

 

Ch em trên kính dưi nhưng,

nhà có phúc, mi đưng yên vui.

 

Ch đ nghĩa là nhưng,

Nhưng anh, nhưng ch, li nhưng ngưi trên.

Ghi lòng tc d ch quên,

Con em phi gi ly nn con em.

 

Tuy nhiên, mặc dù “anh em như thể tay chân” nhưng nếu anh em không thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, không kính trên, nhường dưới nghĩa là không có Nhân Nghĩa thì:

 

Người dưng có ngãi thì đãi người dưng,

Anh em vô ngãi thì đừng anh em.

 

Nhân Nghĩa còn được giăng trải ra khắp thiên hạ qua ý niệm phúc đức. Nhân Nghĩa hay tình người bao gồm ý niệm và hành động làm phước. Do đó, người bình dân đề cao và khuyến khích việc giúp đỡ người khác.

 

Thí mt chén nưc, phưc cht bng non.

 

Vay nên n, đ] nên ơn.

 

Cu đưc mt ngưi, phúc đng hà sa.

 

Làm phúc cu mt ngưi dương gian bng cu ngàn ngưi âm ph

 

Du xây chín bc phù đ,

Không bng làm phúc cu cho mt ngưi.

 

Cu mt ngưi dương gian bng mt vàn âm ti.

 

Dù tu đến cõi thiên thai,

Không bng lưm mt nhành gai gia đưng.

 

Làm phúc hay làm phước theo quan niệm của người bình dân có nghĩa là tích luỹ, dành dụm cái đức; đức là kết quả gặt hái được từ hành động làm phước.

 

Làm phúc cũng như làm giàu.

 

Làm phúc đưc phúc, làm ơn đưc ơn

 

H mun ra con ngưi t tế,

Phi d dàng, ch đ ai hn.

Làm ơn t hn nên ơn,

Tri nào ph k có nhơn bao gi.

 

Mà muốn làm phước để tích luỹ, dành dụm được đức thì phải ăn ở hiền lành vì chỉ có người hiền lành mới có thực tâm làm phước giúp người.

 

Ai ơi! Đng vi ch lo,

Khăng khăng gi ly trưng phu cho bn,

Ai ơi! Gi ly đo hin,

Trng cây ly đc, xây nn ly nhân.

 

Tu thân tích đc.

 

Tích thin phùng thin, tích ác phùng ác.

 

Tòng thin như đăng, tòng ác như băng.

 

Ai ơi c cho lành,

Tu nhơn tích đc đ dành v sau.

 

Ngưi trng cây hnh ngưi chơi,

Ta trng cây đc đ đi v sau.

 

Có tin có hu mi hay,

Có trng cây đc mi dày nên nhân.

 

Phưc đc quý hơn bc vàng,

My ngưi gian ác, giàu sang ích gì!

 

Trăm năm tc mt ch đng,

K vun cây đc, ngưi trng cây nhân.

 

Cu tài không bng cu phưc

 

Người bình dân Việt Nam tin vào định luật nhân quả, nên tích luỹ phúc đức sẽ đem lại hoà bình, hạnh phúc cho bản thân và cho con cháu:

 

Khen ai kiếp trưc khéo tu,

Đi nay con cháu võng dù nghênh ngang.

 

Ông cha kiếp trưc khéo tu,

Nên sanh con cháu võng dù nghênh ngang.

 

Đi cha đp nm, đi con m m.

 

Đi trưc đp nm, đi sau m m.

 

Đi cha trng cây, đi con ăn qu.

 

Nhưng có ba điều quan trọng trong việc làm phước hay giúp đỡ người khác. Đó là:

 

_ Chỉ nên giúp đỡ những người khốn khó, hoạn nạn cần giúp đỡ thì mới đúng nghĩa làm phước. Và nhất là giúp đỡ người khác trong lúc chính bản thân mình cũng ở trong hoàn cảnh khó khăn thì mới thực là quý hoá.

 

Giúp ngưi khi khó mi hay

Nói chi b bch nhng ngày m no.

 

Mt miếng khi đói bng mt gói khi no.

 

Lá lành đùm lá rách.

 

Khó, giúp nhau mi tho,

Giàu, phù tr không ơn.

 

Nghèo vi nghèo, giúp nhau ly tho; giàu mc giàu, xu nnh ai đâu.

 

Nhiu ít cũng là ơn nghĩa, miếng khi đói bng gói khi no.

 

_ Làm phước không nên mong được trả công hay mong được người ta biết đến sự rộng lượng của mình. “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”3

 

Thi ân bt cu báo.

 

Làm phúc không cu đưc phúc.

 

Làm ơn nên thong như không,

Chu ơn nên tc vào lòng, ch quên.

 

Làm lành mun chúng biết danh,

y là làm tiếng, phi lành mô.

 

_ Phương cách giúp đỡ người tốt nhất là giúp phương tiện; giúp của chỉ có hiệu quả nhất thời, còn phương tiện có thể giúp người gặp khó khăn, hoạn nạn có cơ hội phát triển và trở nên độc lập trong tương lai.

 

Giúp lời, không ai giúp của; giúp đũa, không ai giúp cơm.

 

Cho vàng không bng tr đàng đi buôn.

 

i hũ vàng chôn không bng cái trôn con heo nái.

 

Tóm lại, quan điểm chủ đạo của bài này là niềm tin vào ý niệm Nhân Nghĩa của người bình dân Việt Nam. Ý niệm này hẳn nhiên là do ảnh hưởng của Nho giáo; có thể cũng còn có ảnh hưởng Từ bi của Phật giáo; và có thể cũng phần nào do ảnh hưởng Bác ái của Công giáo. Tuy nhiên, tất cả những ảnh hưởng này đều phát xuất từ những phạm trù lí thuyết trừu tượng.

 

Người bình dân không phải là những học giả để có thể phân tách ngữ nghĩa của những ý niệm trừu tượng; những phân tách và định nghĩa của các học giả thường khác nhau cũng như khác với quan điểm thực dụng của người bình dân Việt Nam. Người bình dân lãnh hội ý niệm Nhân Nghĩa bằng trực giác và định nghĩa của họ là những thể hiện trong thực tế (operationalizations) bằng những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống hằng ngày. Nếu chúng ta dùng phương pháp loại suy từ văn chương bình dân để kết luận về định nghĩa thì, đối với người bình dân Việt Nam, Nhân Nghĩa đơn giản có nghĩa là tình người cùng với nội hàm ngữ nghĩa tất yếu của nó gồm có trách nhiệm, bổn phận, và sự biết ơn đối với tha nhân.

 

Định nghĩa này được áp dụng ở mức độ quan trọng nhất trong quan hệ vợ chồng. Đã là vợ chồng thì phải thương yêu nhau, không nên phụ rẫy, lìa bỏ nhau, và có bổn phận đồng lao, cộng khổ, và nhất quyết cùng nhau đi trọn cuộc đời. Nhân Nghĩa đối với cha mẹ có nghĩa, thiết yếu hơn cả, là thương yêu, phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc, lo lắng cho cha mẹ về thể chất cũng như tinh thần và biểu hiện sự biết ơn đối với công lao của cha mẹ. Đối với anh em thì Nhân Nghĩa đòi hỏi phải thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, kính trên, nhường dưới, và hoà thuận. Đối với tha nhân thì Nhân Nghĩa đòi hỏi người ta phải biết ơn và đền ơn và nên giúp đỡ những người trong hoàn cảnh khốn khó, hoạn nạn, nhưng khi giúp đỡ thì không nên mong được trả ơn hay mong được người ta biết đến mình, và hành động giúp đỡ tốt đẹp nhất là giúp đỡ phương tiện vì giúp của chỉ có hiệu quả nhất thời, tạm bợ, còn giúp phương tiện sẽ hỗ trợ người gặp khó khăn, hoạn nạn có cơ hội phát triển và tự lập lâu dài trong tương lai. Chính việc cụ thể hoá tình người bằng những hoàn cảnh sống thực tế này của người bình dân đã mang lại tính đặc thù cho văn hoá Việt tộc.

 

 

 

Tiu Thch Nguyễn văn Thái, Ph.D.

Ngày 22 tháng 1 Năm 2024

North Wales, Pennsylvania 19454

 

___________________________________

THAM KHẢO:

 

1 https://www.uybantruyto.com/2020/03/nhan-nghia-trong-van-chuong-binh-dan/

 

2 https://www.uybantruyto.com/2018/12/chu-hieu-trong-van-hoa-dan-gian-cua-dan-toc/

 

2 https://www.uybantruyto.com/2018/12/chu-hieu-trong-van-hoa-dan-gian-cua-dan-toc-phan-ii/

 

2 https://www.uybantruyto.com/2018/12/chu-hieu-trong-van-hoa-dan-gian-cua-dan-toc-phan-iii/

 

2 https://www.uybantruyto.com/2019/01/chu-hieu-trong-van-hoa-dan-gian-cua-dan-toc-phan-iv/

 

3 Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18

 

 

 

 

Leave a Reply

Your email address will not be published.