Đêm Trừ Tịch Đọc Thơ Đường

Tác giả: *Lam Nguyên

                                                      

            Đêm nay,ngồi nhớ lại những đêm Trừ Tịch ở quê nhà. Rồi lại nhớ câu đối của Tiền nhân như sau:

Dao Văn Bạo Trúc Tri Trừ Tịch,

遙  聞  暴  竹  知  除  夕

Ngẫu Kiến Mai Hoa Giác Dĩ Xuân.

偶  見  梅  花  覺  已  春

Nghĩa là:

Xa nghe pháo trúc đêm Trừ Tịch,

Chợt thấy hoa mai biết Tiết  Xuân !

Gần như Đêm Trừ Tịch nào ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ này, chúng tôi đều trịnh trọng thắp hương trên bàn thờ Cửu huyền thất tổ của gia tộc! Nhớ lại những ngày thơ ấu ở quê nhà,được hầu trà Tiên-phụ, được nghe Tiên-phụ của chúng tôi đọc những bài thơ Xuân trong Đưòng-thi! Xuân về, Tết đến nhớ cái thú nghe thơ Đường nên hôm nay chúng tôi mạo muội trích lại một ít bài thơ Đường mà chúng tôi đã từng nghe và từng đọc để cùng các bạn trẻ hải ngoại thưởng thức trong ngày Xuân về Tết đến :

  1. Xuân Biệt                                            春  别

Trịch hạ ly tràng chỉ loạn san                     擲 下 璃  噇  恉  亂  山

Xu trình bất đãi phượng sinh tàn                         趨  桯  不  待  鳳  生 殘

Hoa biên mã tước kim hàm khứ              花  邊  馬  皭  今  酣  去

Lâu thượng nhân thùy ngọc trợ khan    樓  上  人  垂  玉  筋  看

Liễu mạch tuy nhiên phong niểu niểu     柳  陌  荽  然  風  嬈  嬈

Thông hà do tự tuyết man man                通  河  由  自  雪  漫  漫

Ân cần mạc yếm điêu cừu trọng                           慇  懃  莫  厭  貂  裘  重

Khủng phạm tam biên ngũ nguyệt hàn.   恐  犯  三  邊  五  月  寒

Chương Kiệt                                                 

Chương Kiệt (837-?), người Tiền Đường, tỉnh Chiết Giang, thi Tiến-sĩ hỏng nên buồn sống lưu lạc nhiều nơi.Không rõ cuộc đời sau  này của Thi-sĩ ra sao!                                          

Dịch thơ :

Ra đi giữa ngày Xuân

Ném chén rượu,nhìn núi sông bát ngát,

Tiếng sênh chưa dứt..dục bước lên đàng

Giữa khóm hoa tiếng nhạc ngựa khua vang

Người trên gác, trông xa nhòa mắt lệ

Khóm liễu buồn trong phảng phất gió bay

Sông Thông ấy, cảnh hoa tuyết phủ đầy

Nên chẳng ngại  chiếc áo cừu tuy nặng

Ở Tam Biên vào mùa Hạ rét cắt da !

Lam Nguyên

 

 

  1. Xuân Dạ Biệt Hữu Nhân      春 夜 别 友 人

Ngân chúc thổ thanh yên                                     銀  蠾  吐  清  湮

Kim tôn đối ỷ diên                                                  金  樽  對  綺  筳

Ly đường tư cầm sắt                                             離  堂  思  琴  瑟

Biệt lộ nhiễu sơn xuyên                                        别  路  繞  山  川

Minh nguyệt ẩn cao thụ                                       明  月  隱  髙  樹

Trường hà một hiểu thiên                                   長 河 沒  曉   天

Du du Lạc Dương khứ                                           悠  悠  洛  陽  去

Thử hội tại hà niên.                                               此  會  在  何  年.

Trần Tử Ngang                                                陳  子昂

 

Trần Tử Ngang (661- 701), tự Bá Ngọc, quê Xạ Hồng, tỉnh Tứ Xuyên, từng đỗ Tiến Sĩ vào năm 20 tuổi và làm quan dưới thời Vũ Hậu, nắm chức Giám-quan. Vì dâng sớ can gián nhà Vua nên ông đã cáo lui vế ở ẩn! Sau bị tên huyện lệnh hãm hại, chết trong ngục thất! Ông là một trong những Thi sĩ có công trong việc đổi mới  thơ Đường.

 

Dịch:

Tiễn Bạn Đêm Xuân

Đêm Xuân nến bạc tinh khôi

Chén vàng chưa cạn chia đôi bạn rày

Tiếng đàn giả biệt nơi này

Trăng tà với bóng hàng cây lẫn màu

Sông Ngân tắt ánh sương thâu

Lạc Dương cách trở… Biệt câu  dặm ngàn

Bạn, Tôi sum hợp đôi đàng

Bao giờ lại được… luận đàm hàn huyên!

Ngọc Tân

 

  1. Xuân Sơn Nguyệt Dạ                春 山 月 夜

Xuân sơn đa thắng sự                                           春  山  多  勝  事

Thường ngoạn dạ vong quy                                嘗  玩  夜  忘  歸

Cúc thủy nguyệt tại thủ                                        椈  水  月  在  手

Lộng hoa hương mãn y                                        弄  花  香  滿  衣

Hứng lai vô viễn cận                                              興  來  無  遠  近

Dục khứ tích phương phi                                     欲  去  惜  芳  菲

Nam vọng chung minh xứ                                    南  望  鐘  鳴  處

Lâu đài thâm thúy vi.                                            樓  臺  深 翠 微

Vu Lương Sử                                                                   于 良 史

Vu Lương Sử , chúng tôi rất tiếc là chưa tìm được tiểu sử của Thi sĩ! Xin chư bậc Học giả cũng như bạn đọc cung cấp cho chúng tôi tiểu sử của Thi sĩ Vu Lương Sử, thành thật đa tạ!

 

Dịch :

Đêm Trăng Trên Núi Xuân

Núi Xuân cảnh đẹp bày

Quên về đêm tối nay

Hương hoa thắm đầy áo

Trăng nước vốc đầy tay

Say sưa gần xa… mặc

Muốn đi lòng còn say

Trời nam chuông vọng lại

Lâu đài ẩn rừng cây!

Linh Thoại

4.

Xuân Tứ                                                                    春  思

Thảo sắc thanh thanh liễu sắc hoàng               草 色 青 青 柳 色 黄

Đào hoa lịch loạn lý hoa hương                         桃 花 歷 亂 李 花 香

Đông phong bất vị xuy sầu khứ                          東 風 不 爲 吹 愁 去

Xuân nhật thiên năng nhạ hận trương.           春 日 偏 能 惹 恨 長.

Giả Chí                                                                       賈  至

Giả Chí   tự là Ấu Lân, người ở quê Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam từng đậu khoa Minh kinh đời Đường Huyền Tông. Họ Giả thảo chiếu Vua HuyềnTông nhường ngôi cho Thái tử Hanh tức Đường Túc Tông và phụ thân của thi sĩ Giả Chí cũng từng thảo chiếu Vua Duệ Tông nhường ngôi cho Thái tử Long Cơ tức Đường  Huyền Tông trước kia. Vì vậy, được Vua khen :Cha con của Giả Chí đã làm một việc lịch sử cổ kim hiếm có! Chúng tôi chưa rõ năm sanh, năm mất của Thi sĩ Giả Chí!

Dịch:              Xuân Tứ

Sắc cỏ xanh xanh,liễu sắc vàng

Đào hoa tươi thắm lý hương nồng

Gió Xuân sao giải được sầu não

Ôm hận triền miên Xuân ngập lòng!

Nguyên Mỹ

  1. Xuân Cung Khúc 春 宫  曲

Tạc dạ phong khai lộ tỉnh đào                                        咋 夜 風 開 露 丼 桃

Vị ương tiền điện nguyệt luân cao                                未 央 前 殿 月 輪 高

Bình Dương ca vũ tân thừa sủng                                   平 陽 歌 舞 新 承 寵

Liêm ngoại Xuân hàn tứ cẩm bào.                                 簾 外 春 寒 賜 錦 袍

Trương Cửu Linh                                                                張  九  齡

 

Trương Cử Linh     (673- 740) ,tự Tử Thọ quê Thiều Châu, Khúc Giang làm quan đến chức Tể tướng vào thời Khai Nguyên. Thi sĩ là một người rất chính trực nên bị bọn gian thần như Lý Lâm  Phủ hãm hại và cuối cùng bị vua cách chức, biếm đi làm trưởng sử Kinh Châu. Ông cùng một số thi sĩ cùng thời đã đóng góp rất lớn trong việc làm cho thơ ca thoát khỏi ảnh hưởng của Tề, Lương diễm lệ! Đã dọn đường cho thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ sau này!

 

 

Dịch:  Khúc Hát Xuân Trong Cung

Nụ đào gió hé trăng Xuân

Bình Dương ca múa ân cần quân vương

Nắng Xuân se lạnh người thương

Cẩm bào Vua tặng cho Nàng thưởng Xuân!

Trúc Viên

Lam Nguyên    

Seattle, Đêm Trừ Tịch…Nhớ quê nhà!

Leave a Reply

Your email address will not be published.