Phim có thể là một áng văn học không?

 

Tiểu thuyết là câu chuyện kể mang tính nghệ thuật ngôn ngữ và ẩn màu sắc tư tưởng. Khi chưa có chữ viết thì kể bằng miệng. Lúc kể chuyện, muốn cho hấp dẫn; nghệ sĩ dùng một số bộ điệu đóng thế một số vai để câu chuyện trở nên sống động hơn. Đó là tiền thân của bộ môn kịch về sau. Và bộ môn kịch sớm được đưa vào văn học, và ngay ở buổi ban đầu, gần như nó chiếm lĩnh trên văn đàn đầy uy lực hơn so với tiểu thuyết văn chương chữ viết.
Bi kịch – hài kịch trên văn đàn Phương Tây là một ví dụ. Các tác giả bi kịch Hy Lạp như Euripide, Sophocle, và hài kịch La-tinh như Sénèque, Térence… Aristophane (Hy Lạp) được kính trọng trong nền văn học Pháp.
Kịch là loại hình mô tả bằng động tác nên gặp nhiều khó khăn trong phổ biến, nhưng lại có nhiều lợi thế trong cảm nhận nơi người xem hơn là tiểu thuyết chữ viết. Nhân vật của Kịch bày tỏ cảm xúc dễ gây phản ứng trực tiếp nơi khán giả do tâm lý xúc động trước tình huống cụ thể hơn là độc giả cảm nhận một cách riêng tư khi đọc.
Nhưng cái trở ngại của kịch hôm nay được khắc phục rất nhiều và đạt đến lợi thế hơn tiểu thuyết nhờ vào kỹ thuật, bằng cách chuyển tải qua “phim”. Lợi thế của Phim so với Kịch chính là “kỹ thuật”. Nhân vật trong phim cũng hiện diện trực tiếp/đối mặt với người xem, cho nên sự truyền thụ cảm xúc cũng kích động hệ thần kinh làm cho phản ứng xung động tình cảm bị kích thích trực tiếp như kịch, mà còn hơn thế nữa, hiệu quả còn mạnh hơn là nhờ các frames cận ảnh (gros plan) lột tả cảm xúc chi tiết và tế nhị hơn.
Người xem phim có thể cảm nhận một diễn biến tâm lý, suy nghĩ của nhân vật qua từng nét mặt, đến tận từng chi tiết ánh mắt, nếp nhăn trên trán hoặc một cử động nho nhỏ của ngón tay, bàn chân… (gros plan).
Do đó, về luật “Ba duy nhất” (thời gian, địa điểm và hành động) của kịch chuyển qua điện ảnh thì được rộng mở hơn, uyển chuyển hơn; giúp cho đạo diễn thể hiện cái mật ngữ của tác giả gởi gắm để người xem dễ dàng cảm thụ đến sâu sắc hơn.
Tính cách rộng mở và uyển chuyển của Phim được nhà đạo diễn Nga Sergei Eisentein (1898 – 1948) khai triển thành ý niệm “montage”: để những images với nhiều xung đột (collision) ở cạnh nhau làm cho Điện ảnh thêm hấp lực hơn. Nhờ cái montage đó mà có thể xáo trộn thời gian cho việc diễn tả cái “Thời – Không” [temps – espace] trong tâm lý hiệu nghiệm hơn kịch và tiểu thuyết (tiểu thuyết cũng áp dụng cái montage đó như: “chuyện đó không nói nữa… hồi sau sẽ rõ”, hoặc “trong khi đó…”; nhưng thiếu cái uyển chuyển của phim). Dầu Phim với kỹ thuật hiện đại cũng không thể ra ngoài cái luật “không – thời hợp nhất ấy”, nó chỉ có thể “chuyển cảnh (scène) lẹ hơn thôi. Mỗi “scène” của phim rộng hơn thôi! “Phim là Kịch được nối dài” là vậy: cũng nhờ vào kỹ thuật mà nghệ thuật diễn đạt với được tới tầm cao có thể, qua mặt được bộ môn Kịch. Phim cũng gần với Tiểu thuyết hơn Kịch ở chỗ nó có thể mượn cảnh để diễn tả tâm sự “người buồn… cảnh có vui đâu bao giờ.” [ND]
Kể cả Kịch và Phim đều có âm nhạc hỗ trợ hiệu quả trong sự gợi mở sức tưởng tượng cho người xem hơn là người đọc.
Do đó, kể về mặt ưu thế truyền cảm xúc, đẩy mạnh sức tưởng tượng thì Phim trội hẳn hơn Kịch và Tiểu thuyết; nên người xem phim “sống” với nhân vật thực hơn. Và trên phương diện nghệ thuật, Phim tổng hợp được các ưu thế của Kịch và Tiểu thuyết… và khắc phục được nhiều hạn chế hơn hai bộ môn trên.
Chính vì sức mạnh ấy của Phim nên tác dụng của nó cũng hết sức cường liệt. Tốt thì ảnh hưởng tốt ngay, mà xấu thì cũng sẽ xấu tức thì. Một tác phẩm văn chương (Tiểu thuyết – Kịch) được chuyển thể sang Phim thì hình như sức mạnh của thông điệp có tác dụng hữu hiệu hơn.
Sức quyến rũ, tính phổ biến chính là lợi thế của Điện ảnh, giúp Điện ảnh chuyển tải cái hoài bão của Kịch và Tiểu thuyết bị chặn đứng trước ngưỡng cửa của những người ít chữ. Cái thú đọc sách của người biết chữ chia xẻ cùng người ít chữ nhờ cái thú thưởng thức phim; cũng như cái khoảng cách văn học… Điện ảnh sẽ mang họ xích lại gần nhau hơn. Cái tế nhị, cái ẩn ý mà Tiểu thuyết muốn gợi mở, báo động làm cho độc giả phải suy gẫm… thì Điện ảnh sẽ đền bù lại cho người không đọc Tiểu thuyết.
Người Việt Nam hôm nay “đọc” Thủy Hử, Tam Quốc Chí, Tây Du Ký… Le Cid, Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà Paris, Cuốn Theo Chiều Gió, 1001 Đêm… Don Qiuchotte… nhiều hơn cha anh họ. Và rồi đây, có thể người ta (không phải tất cả) sẽ “nghe/xem tiểu thuyết” hơn là đọc tiểu thuyết.
Sự tương tác giữa Kịch, Tiểu thuyết và Phim đã trở nên máu thịt. Fr. Sagan chuyển cái không khí mơn man buồn ở tiểu thuyết của bà sang kịch hết sức thành công; cũng như B.M. Koltès tạo ra không khí tiểu thuyết đen trong các vở kịch vậy. Và Dương Khiết đưa cái giả tưởng vào hiện thực mà người xem phim thì tìm lại được chính mình trong Tây Du Ký.
Một chiếc lông chim phiêu bạt trong không gian – hay là một thân phận nổi trôi trên giòng đời; “số phận là thế ấy !” được đạo diễn trình bày trong phim “Forrest Gump”. Một tượng trưng gợi mở ở văn chương là “từ một tập hợp từ tới một mạng lưới các ý tưởng” (*) mà trong phim là hình ảnh: “Chiếc lông chim !”. Một tượng trưng!
Kịch – Tiểu thuyết – Phim chỉ là ba phong cách nghệ thuật thể hiện của văn chương, và cùng đóng góp vào sự phát triển ngôn ngữ, khai mở tư tưởng và làm giàu thêm cho tâm tình nhân loại hơn lên. Và Điện ảnh: một phương tiện mới, một cảm nhận mới; chúng ta có thể có một ý niệm mới hay không ? Cái mới chưa kịp tạo được danh nghĩa chính thống liệu nó có nguy cơ bị gạt ra ngoài cái chính đáng hay không ?
Vâng, dầu Điện ảnh có khoảng chừng hơn 100 năm nay [kể từ ngày anh em nhà Lumière (Pháp) phát minh ra chiếc cinématographe quay và chiếu phim lần đầu tiên năm 1895… so với tuổi đời của hai bộ môn Kịch và Tiểu thuyết thì chỉ là hàng hậu duệ khá xa… và hai bộ môn này đã đi vào tiềm thức nhân loại như một truyền thống cố cựu rồi. Do đó, Điện ảnh khó cạnh tranh cái vị trí “truyền thống” với các tổ phụ của nó. Cho nên vấn đề được đặt ra là: cái mới chưa tạo được danh nghĩa chính thống liệu nó có nguy cơ bị gạt ra ngoài cái chính đáng không?
Thậm chí tạp chí UNESCO khi đặt vấn đề về “ĐIỆN ẢNH” cũng chỉ xem Điện ảnh như một báu vật văn hóa cần phải bảo tồn chứ không hề quan tâm đến chức năng “văn chương” trong Điện ảnh [Người đưa tin UNESCO số tháng 8-1984 – Bản Việt ngữ]. Trong số báo này tập trung khá nhiều nhà nghiên cứu điện ảnh: Raymond Borde, nhà sử học và phê bình điện ảnh Pháp – Paulin Soumanou Vieyra, nhà điện ảnh và phê bình điện ảnh Sénégale – Italo Manz, nhà phê bình và chuyên gia điện ảnh Argentina – Vladimir Dmitrev, nhà lưu trữ, phê bình và nghiên cứu lịch sử điện ảnh Liên Sô – Manuel Pepeira là nhà văn và nhà báo Cuba, và ông còn là nhà phê bình điện ảnh và viết kịch bản phim… cũng chỉ bênh vực khái niệm tài sản văn hóa cốt nhằm vào mục đích: quân sự, pháp lý, giáo dục, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, lịch sử, sư phạm, công nghệ, y học, sân khấu… thậm chí cả mục đích triết học… nhưng không hề nghe nói đến “văn chương” hay mục đích “văn học” của Điện ảnh.
Và nhiệm vụ phê bình (criticisme) qua những bài phê bình trên các báo, tv, radio… – đều tập trung vào trọng điểm: kỹ thuật, nghệ thuật và văn hóa – mà phần văn chương được âm thầm như không hiện diện khi phân tích một cuốn phim; dầu cho cuốn phim đó được chuyển tải từ một áng văn học như Tây Du Ký, Don Quichotte, Cuốn Theo Chiều Gió, Quo Vadis, Doctor Jivago…
Ở đây người viết xin mạn phép không đặt lại vấn đề hay đưa ra thêm định nghĩa: thế nào là văn học?… thế nào là văn chương?. Vì hai từ “văn học” và “văn chương” nó đã sẵn sàng trong tri thức người đọc rồi; luận thêm e loạn! Cái “văn chương”, nếu có trong một tác phẩm Điện ảnh hoặc nói một cách khác là trong kịch bản phim thì “” không nằm ngoài “văn bản – xin được hiểu là lời văn trong kịch bản (chủ yếu là lời thoại) –
Và “văn học” trong phim là gì ? Hoặc nói một cách nhẹ nhàng hơn: “văn chương” là gì trong Điện ảnh? Như câu hỏi này cũng được đặt ra cho kịch: “Văn chương” là gì trong Kịch ? Khảo sát văn chương của Kịch không ngoài các lời thoại. Chắc hẳn Văn chương của Điện ảnh cũng không ngoài các lời thoại! Và chúng ta khảo sát văn chương chính văn chương của tác phẩm (Điện ảnh được xem là tác phẩm nghệ thuật). Kịch Molière, Racine, Corneille, Shakespeare… chắc chắn lời của Hamlet được đưa vào văn học.
Các giải thưởng uy tín Điện ảnh như Sư Tử vàng, Cành Cọ vàng, Oscar… đều có một giải cho “kịch bản” thì có lẽ ban giám khảo cho rằng “kịch bản là một tác phẩm” chăng? Giá trị của kịch bản phim được thừa nhận hẳn nhiên là gồm: cấu trúc câu chuyện, sắp xếp dàn dựng làm tiền đề cho đạo diễn, lời văn (chủ yếu là lời thoại) và tư tưởng được lồng vào cả ba phạm trù trên. Nhưng nhà văn học có ngắt ra được bông hoa “văn chương” nào trong đó không… như nhà phê bình văn học tỉa ra cái “văn chương” trong Kịch và Tiểu thuyết vậy.
Kịch đã được vào văn học, thì sao văn đàn lại đóng sầm cánh cửa trước mặt Điện ảnh khi mà Phim xét về tất cả mọi mặt nghệ thuật thì nó là một thứ kịch nghệ thứ hai, tức “kịch được nối dài” đó.
Cuộc tranh luận về tiểu thuyết và phim của nhà văn trước sức mạnh của bộ môn nghệ thuật thứ bảy này cho ta thấy nỗi lo lắng của họ không phải là không có cơ sở. Vì cái thú đọc sách là ở sự thưởng ngoạn văn chương chứ không phải là thứ ngoạn cảnh như người xem phim. Thú khám phá cái huyền ngôn mật ngữ mới là cái nhã của người đọc. Tác giả khi đắc một từ, một câu, một ý cũng là cái thú của người đọc thưởng thức cái kho trời chung mà vô tận của mình riêng.
Cái thú ấy, người xem phim cũng tận hưởng được cái vị mặn mà của câu nói ý nhị, cái chất ngọt ngào của ngôn ngữ phong nhã, cái hương thơm của tư tưởng đượm tình: với người, với thiên nhiên, với những người anh em nhỏ bé cùng chia xẻ sự sống với chúng ta trên cái giọt bùn bé nhỏ mong manh này.
Nhưng câu hỏi vẫn còn đang bỏ ngỏ ! Ω

Hồng Phương Viên [Vũ Ngọc Anh]

{jcomments on}

Leave a Reply

Your email address will not be published.