Thầy Còn Nhớ Tôi Không?

* Nhân ngày nhà giáo Việt Nam , BBT Hương Xưa kính gởi  Cô

những bông hoa tươi thắm xinh đẹp nhất .

Kính chúc  gia đình Thầy Cô vạn sự lành. HX

 

 

* Cô Vương Thúy Nga, cô Lê Thị Cúc và CHS NTHQN trong ngày Hội trường

 

Thầy Còn Nhớ Tôi Không?
GS Nguyễn Xuân Vinh


Cô Vương Thúy Nga chuyển tiếp

Mới đây khi đọc một tờ báo xuất bản ở miền Tây Bắc Hoa Kỳ, một bài
viết về “Trường Cũ”, tôi thấy được tác giả nhắc tới rằng khi xưa tôi
là một học sinh hiền lành. Cho đến bây giờ tôi vẫn được bạn bè cho là
một người hiền. Chỉ có nhà tôi, mỗi lần thấy ai khen tôi như vậy thì
lại nói: “Anh mà là người hiền!?”

Một điều cố hữu với tôi là đối với các vị lớn tuổi hơn, với các
thầy và cô giáo, cũng như các vị tu hành, tôi thưa gửi rất lễ phép.
Những điều này tôi làm rất tự nhiên, từ hồi còn nhỏ đến giờ, không bao
giờ thay đổi. Khi còn ở bậc tiểu học, tôi được học trong cuốn Quốc Văn
Giáo Khoa Thư, chuyện ông Sadi Carnot (1837-1894), là Tổng Thống Cộng
Hoà Pháp vào năm 1887 khi trở về làng tới thăm thầy học cũ và nói
rằng: “Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không?”. Tôi không còn nhớ
là thầy dậy tôi lúc bấy giờ bình luận chuyện này ra sao, nhưng đối với
tôi, thực tình tôi cho chuyện này không có gì đặc biệt, giá trị luân
lý so với những chuyện khác của người Việt Nam chúng ta như sự tích
Lưu Bình-Dương Lễ (kể thêm cả Châu Long) thật là kém xa.

Từ ngày sống nơi khách địa, tôi mới nhận thức được lý do chuyện
ông Carnot được kể ra như một gương sáng đáng noi theo cho người Tây
phương. Tôi đã nhìn thấy những người học trò, sau này tiến bộ hơn ông
thầy, không những quên những ngày được dậy dỗ mà có khi còn lên tiếng
chê bai thầy kém cỏi. Ở trong bất kỳ một công hay tư sở, trong kỹ
nghệ, trường học, hay ở trong hệ thống chính quyền trên đất nước này,
thế nào cũng có những người trẻ ở cấp bậc điều khiển, những người này
tất nhiên đã có lần vượt lên trên những người trước kia quản lý hay
chỉ dẫn cho mình. Tôi không biết họ còn nói được những câu ân tình với
những người đã huấn luyện cho mình hay không.

Riêng tôi thì được may mắn trong tình bè bạn, có lẽ vì sự giao du
thân mật của tôi chỉ giới hạn với những người tôi cho là hiền lành.
Tôi ở trong quân đội mười bốn năm, sau này dậy học khoảng ba mươi năm,
gặp những bạn bè và học trò cũ bao giờ tôi cũng thấy thoải mái. Nghĩa
tình đối với những cựu chiến hữu xưa kia cùng chiến đấu , tôi đã nói
đến nhiều trên sách báo. Giờ đây tôi viết về kỷ niệm với học trò cũ và
về những người đặc biệt mà tôi đã có may mắn được gặp trên đường đời.

Một lần tôi ghé qua San Jose, một tỉnh ở miền Bắc Cali, bạn bè
mời tôi tới dự một dạ hội. Một vị khách tới chào và nói: “Em là Hải
quân Đại tá Trần Thanh Điền, trước kia học toán với giáo sư ở Petrus
Ký”. Đại tá Điền trước đây là giới chức cao cấp ở phủ Tổng Thống thì
ai cũng biết. Còn tôi trước kia có dậy một năm học ở Trường Trung Học
Petrus Ký, thì thật ít người biết. Tôi thật không ngờ trong những học
sinh trẻ thời ấy có những người sau này nổi tiếng trong võ nghiệp. Ở
miền Bắc Cali có tuần báo Việt Mercury là một tờ báo được nhiều người
đón đọc. Khi nhận được bài viết đầu tiên tôi gửi tới, ông Tổng thư ký
đã điện thoại ngay và nói: “Em là Nguyễn Xuân Hoàng, trước học Petrus
Ký. Em rất mừng nhận được bài của thầy”. Ông Hoàng lúc đó cũng là giáo
sư thỉnh giảng ở Đại Học California, Berkeley. Vậy là tôi tốt số, có
môn sinh thành đạt ở cả hai ngành văn và võ.
Cũng về văn, cựu học sinh trường Võ Tánh ở Nha Trang là nơi
tôi đã từng dậy mỗi tuần vài giờ theo lời yêu cầu của Bộ Quốc Gia Giáo
Dục và sự chuẩn y của Bộ Quốc Phòng khi tôi mới ở Pháp về và nước nhà
còn thiếu nhiều giáo sư Toán có bằng cấp đại học, những học sinh đã
theo học lớp tôi dậy có anh Trần Huỳnh Châu sau này là công chức cao
cấp trong chính phủ. Học trò cũ ở Võ Tánh còn có anh Lư Văn Thành,
cũng là cầu thủ bóng tròn xuất sắc ở trường, sau này trong quân đội là
sĩ quan liên lạc Việt Mỹ.  Tôi đã viết anh là người đôn
hậu và tính tình chung thủy. Khi xưa, trên sân cỏ, khi đã đưa banh qua
hàng hậu vệ, anh đá thẳng như sấm sét vào khung gỗ. Giờ đây viết sách
kể lại chuyện xẩy ra sao, anh kể lại một cách trung thực, đi thẳng và mạnh
vào tâm hồn người đọc, như đường banh khi xưa của anh đi thẳng vào
lưới. Tuy tôi cũng chỉ dậy có một niên học ỏ Võ Tánh nhưng lại có
nhiều tình thầy trò sâu đậm với trường. Thỉnh thoảng tôi lại được đọc
trên báo hay những đặc san những bài nói về Nha Trang và trường cũ của
những cựu học sinh và đôi khi thấy tên mình được nhắc tới.

Miền thùy dương cát trắng cũng là nơi đã cung cấp nhiều nhân tài
cho nền văn học Việt Nam ở quốc nội cũng như ở hải ngoại. Trong bộ môn
thơ, một người đã đưa thi phẩm của mình ra giới thiệu ở diễn đàn thơ
quốc tế là Hải Bằng Hoàng Dân Bình. Là hội viên của Hội Thi Sĩ Quốc
Tế, năm 1998 anh đã trình đọc bài thơ “Render unto Me That Which Is
Mine” (Hãy Trả Lại Cho Ta) tại Đại hội thường niên quy tụ khoảng một
ngàn hội viên đến từ các nơi trên thế giới. Tôi nhận được tập thơ
“Hương Yêu” của anh, xuất bản năm đầu thiên niên kỷ mới với lời ký
tặng nhớ lại tình thầy trò xa xưa. Trong tập thơ, chứa đựng nhiều bài
hay đẹp tuyệt vời, và đã được học giả tiến sĩ Thái Văn Kiểm giới thiệu
và khen tặng nhiệt liệt, Hải Bằng đã trải rộng tâm tình trên quê
hương, với thân hữu và gia đình, bằng những vần thơ thắm đặm tình
người. Qua những lời giới thiệu trong cuốn sách, tôi chỉ biết là sau
khi học ở Võ Tánh, Hoàng Dân Bình, cậu học sinh mà tôi nhớ khi xưa
trông hiền lành, sau này về Sàigòn theo học Luật Khoa và sau khi tốt
nghiệp đã dậy học nhiều năm trước khi được động viên và trở thành sĩ
quan như bao nhiêu chàng trai trẻ khác thời tao loạn. Có lần tôi được
mời tới Wilmington thuộc tiểu bang Delaware để làm diễn giả danh dự
tại Đại Hội Lưỡng Niên các chuyên gia gốc Á châu của hãng Dupont, nơi
đó gần thành phố Philadelphia là nơi anh cư ngụ, Hải Bằng đã tổ chức
một buổi hội ngộ để tôi gặp anh và gia đình cùng một số thân hữu. Qua
bữa ăn trưa tại một nhà hàng ở khu phố người Việt, gặp mấy vị lãnh đạo
cộng đồng ở địa phương và những vùng lân cận, và ký giả Thomas Toan Le
của Asian News, tôi được biết thêm là từ khi tới Hoa Kỳ. năm 1992, anh
đã tích cực đóng góp vào sự xây dựng cộng đồng cho thêm tươi sáng. Các
con trong gia đình anh chị đều thành đạt và noi gương cha mẹ có lòng
hiếu kính với các bậc tôn trưởng.

Bạn đọc chắc không mấy người biết là nhà thơ tên tuổi Du Tử Lê
trước kia cũng là học sinh Chu Văn An khi tôi đang dậy ở đó. Vì vậy
anh vẫn quen lệ gọi tôi là thầy mỗi khi gặp nhau ở những sinh hoạt văn
nghệ. Thơ của Du Tử Lê không những có nhiều bài được phổ nhạc mà lại
có nhiều bài được dịch sang Anh ngữ. Tôi luôn luôn mong mỏi nhân tài
của mình ở mọi ngành khoa học, kỹ nghệ và nhân văn được các sắc dân
khác trên nước này chú ý đến. Nếu chúng ta chỉ quần tụ với nhau trong
một khung khép kín, kể cả sự luân lưu kinh tế, thì thật không thể tạo
nên một sức mạnh nào có ảnh hưởng tới tương lai của đất nước.

Trở lại với Du Tử Lê, thơ dịch của anh đã được đăng trên Los
Angeles Times và New York Times. Chúng ta cần có rất nhiều người như
anh, ở đủ mọi ngành, văn học, kinh doanh, kỹ thuật, giáo dục, …, hòa
nhập vào cuộc sống hàng ngày trong những xã hội mình sinh sống. Mỗi
lần được tin người Việt bay Boeing 727 cho hàng không dân sự, bay F-16
cho quân đội, hay một phụ nữ làm quản lý cho một công ty lớn, một
chuyên gia giải phẫu người Việt đã chỉnh nghiệm được một phương pháp
tân kỳ là tôi thấy có niềm vui trong lòng. Tôi mong có ngày nhìn thấy
thường xuyên nữ xướng ngôn viên người Việt trên những đài truyền hình
và những tên họ Nguyễn, họ Trần ký dưới những bài bình luận đăng trên
những tuần báo Time và Newsweek. Du Tử lê gửi cho tôi mấy cuốn sách
mới của anh, kèm theo một lá thư anh viết, đề ngày mồng Một Tết năm
Đinh Sửu. Tuy chỉ kém tuổi tôi một giáp, nhưng anh vẫn xưng mình là
“con”, như tôi vẫn thường xưng như thế khi hàng năm viết thư thăm hỏi
các thầy cô khi xưa dậy mình ở những lớp trung và tiểu học.

Học trò ngoại quốc của tôi cũng khá nhiều, và có nhiều người có
chức vụ quan trọng. Có một lần tôi đi cùng với một ông mục sư Mỹ tới
nhà một bà bác sĩ để nhận một ít đồ đạc trợ giúp cho gia đình một
chiến hữu mới tới định cư ở tỉnh tôi. Bà bác sĩ này dọn đi tỉnh khác
nên định cho bớt đi một ít vật dụng trước khi xe chuyên chở tới dọn
nhà. Sau khi trao đổi ít lời, bà cho chúng tôi gần hết những đồ đạc ở
appartment của bà và nói rằng:
“Tôi độc thân nên cũng không cần nhiều đồ bằng gia đình này”. Ông mục
sư nói riêng với tôi:
“Những đồ này sang quá! Khi nào nhà có khách, tôi tới mượn lại dùng ít ngày”.
Khi nghe bà mạnh thường quân này nói là có một đứa cháu cưng vừa
được nhận vào học tại trường Đại học nổi tiếng Purdue University, tôi
nẩy ra một ý kiến. Tôi xin bà bác sĩ một mảnh giấy với cái phong bì,
viết mấy chữ đưa cho bà và nói rằng:
“Thư này để gửi cho một học trò cũ của tôi là giáo sư Đại Học
Purdue. Nếu cần gì, cháu bà cứ mang thư này tới, người bạn tôi sẽ hết
sức săn sóc cho cậu cháu.”
Tôi chắc bà không tin tưởng cho lắm ở bức cẩm nang tôi đưa cho
bà, và nếu bà bác sĩ có mở thư ra đọc thì trên đó tôi chỉ viết hàng
chữ ngắn gọn:
“Jim thân mến. Đẵ có một lần gia đinh cậu sinh viên này giúp tôi
môt việc. Tôi mong rằng anh và Holly săn sóc cậu ta trong thời kỳ học
ở West Lafayette”.
Riêng tôi thì tôi tin chắc là nguời học trò cũ của tôi và bà vợ
anh ta sẽ hết sức giúp cho cậu sinh viên Mỹ nếu được nhờ tới. Anh là
người bạn hiền và chung thủy với tôi. Nếu không thì xưa kia tôi đã
không nhận anh làm môn đệ.

Ngày 24 tháng 4 năm 2009, tôi được Đại học Colorado, là nơi
ngày xưa tôi tốt nghiệp và ở lại một thời gian trong ban giảng huấn,
mời về và vinh danh như là cựu sinh viên đã đạt được những thành tích
xuất sắc và làm vẻ vang cho Trường. Ở bữa tiệc vinh danh, tôi thật cảm
động khi thấy những cựu sinh viên khi xưa đã học tôi và nay họ đều là
những khoa học gia tên tuổi tới ngỏ lời chúc mừng. Tôi gặp lại một
sinh viên cũ là tiến sĩ Daniel J. Scheeres, ông viết luận án với tôi ở
Đại học Michigan, nay thụ ủy ghế giáo sư A. Richard Seebass, Đại học
Colorado đặt ra để tưởng niệm cố Khoa trưởng Seebass, và một cựu sinh
viên khác là giáo sư Robert D. Culp, cựu Trưởng Phân khoa Hàng Không
và Không gian, và cũng là người khi xưa tôi đã hướng dẫn làm khảo cứu
về phương pháp chuyển quỹ đạo khi tôi còn dậy học ở Colorado. Cả hai
ông bà cùng đến thăm hỏi và nhắc lại kỷ niệm khi xưa. Đại học có gửi
cho tôi ít hình ảnh để giữ làm kỷ niệm và, khi nhìn những tấm hình
này, tôi cảm thấy rằng sau bao nhiêu năm cách biệt, lời nói của tôi
vẫn được họ chăm chú nghe và tình thầy trò giữa tôi với họ và gia đình
vẫn thân mật quyến luyến như xưa.

Một lần tôi nhận được điện thoại từ văn phòng ông khoa trưởng Trường
Kỹ thuật của Đại học Michigan khẩn khoản nhờ tôi giúp cho một việc.
Một công ty lớn ở tiểu bang vừa nhận được một công việc có tầm vóc ở
Đài Loan và họ đang chuẩn bị đón tiếp một vị chủ tịch công trình này
sang để duyệt xét trước khi ký giao kèo. Ông này là tiến sĩ Trần Bang
Đạt, trước kia tốt nghiệp ở Đại học Michigan là trường tôi đang dậy,
và có theo học tôi nhiều lớp. Ông đánh điện sang và ngỏ ý muốn trở lại
thăm trường và gặp lại tôi. Ông chủ tịch công ty liên lạc với ông khoa
trưởng vì họ là bạn bè với nhau. Ông khoa trưởng giao lại công việc
cho tiểu ban ngoại vụ và họ nhờ lại tôi tiếp đón người học trò cũ và
mời ăn trưa thịnh soạn, họ sẽ thanh toán mọi phí tổn. Tôi nhận lời, và
vì bà Jean Trần (Cheng) là vợ của người học trò cũ của tôi cũng đi
theo chồng sang lần này, nhân tiện thăm mấy con trai của họ đang học ở
Hoa Kỳ, tôi nhờ nhà tôi đặt một bữa ăn ở một phòng riêng tại một khách
sạn của đại học. Tôi cũng mời vào khoảng 20 sinh viên cao học người
Đài Loan tới dự để gặp giới chức cao cấp của họ. Tới giờ hẹn ông bà
Bang Đạt tới thăm chúng tôi ở nhà riêng. Công ty Mỹ đã thuê một chiếc
limousine thật dài để đưa đón họ. Khi chúng tôi tới phòng ăn, người
khách phương xa nhất định mời tôi ngồi vào ghế thủ tịch, hướng ra
ngoài. Tuy chuyện trò thân mật, nhưng anh vẫn một niềm lễ phép theo lề
lối Á Đông dầu rằng hiện nay anh quản lý một chương trình hàng mấy
trăm triệu Mỹ kim mỗi năm. Sau này, tiến sĩ Trần Bang Đạt được thăng
cấp Trung Tướng Không Quân Trung Hoa Quốc Gia và được giao cho phụ
trách một chương trình chế tạo phi cơ tương đương với loại phi cơ F-16
của Không Quân Hoa Kỳ. Trong thời gian chế tạo, những phi cơ phản lực
khu trục này được đặt tên là Indigenous Defense Fighter (IDF) có nghĩa
là dùng để phòng vệ địa phương. Khi bốn phi cơ kiểu mẫu đầu tiên đã
hoàn bị những chuyến bay thử nghiệm, Trung Tâm Khảo Cứu Hàng Không của
ông ở Taichung, Taiwan có một buổi lễ để giới thiệu ra ngoài cho các
cơ quan truyền thông. Tôi cũng được mời tham dự và được tặng một tấm
bảng ghi công đóng góp vào chương trình này.

Cách đây đã lâu, vào năm 1989, nhân dịp đi họp ở Viện Hàn Lâm
Hàng Không và Không Gian của Pháp, toạ lạc ở Toulouse, một người bạn
học cũ ở trường Sĩ Quan Không Quân Pháp là bác sĩ Đặng Vũ Hùng khi
nghe tin tôi qua Ba Lê, đã cho mấy người bạn Pháp cùng khoá biết. Một
người bạn đồng khoá khác là Đại tướng Guéguen, lúc đó là Tư lệnh Phòng
không của Pháp, đã mời tôi đến thăm bản doanh của ông và ăn trưa cùng
một số sĩ quan trong bộ tham mưu của ông. Một ông Trung tướng, học
khoá sau, khi bắt tay tôi, đã hỏi:
“Chắc ông không còn nhớ tôi?”.
Ông ta định nói là ngày xưa, khi ở quân trường, tôi cũng đã hành
ông rất nhiều. Tôi xin nói lại là tôi là con người rất hiền, xưa nay
không hề cậy thế bắt nạt ai bao giờ. Chắc bạn đọc không có thể nghĩ
rằng Đại tướng Guéguen, phi công khu trục Mirage, lại là người rất
thấp, chỉ cao bằng tôi mà thôi. Vì thế khi xưa, đứng theo hàng ngũ cao
thấp của brigrade sinh viên sĩ quan, ông lúc nào cũng đứng cạnh tôi.
Trước khi từ biệt ra về, tôi và ông chụp chung một bức hình kỷ niệm,
trước chiếc phi cơ đặt gần cổng. Ông đội mụ cát kết, còn là một Đại
tướng Không quân hiện dịch, tôi để đầu trần, nay là người dân sự,
trông trong bức hình, ông hơi cao hơn tôi một chút.

Trong thời gian học bay ở Pháp, tôi phải trải qua nhiều thời kỳ
huấn luyện. Từ học bay cơ bản ở Marrakech, dưới trời Bắc Phi, rồi sang
đến giai đoạn bay chiến đấu ở Salon de Provence miền Nam nước Pháp,
rồi tập bay phi cụ ở Avord trên máy bay hai động cơ, quanh năm trời có
sương mù, tôi đã có nhiều huấn luyện viên, ông nào đối với tôi cũng
đáng bậc thầy, và được tôi là người chuyên cần học hỏi, ông nào cũng
dốc túi truyền dậy những gì độc đáo của mình. Một lần tôi được cùng
khoá sinh viên sĩ quan phi hành của Trường Võ Bị Không Quân tới thăm
Trung Tâm Huấn Luyện Brétigny-sur-Orge là nơi đào tạo những phi công
xuất sắc để bay thử nghiệm những phi cơ mới được chế tạo. Lúc đó là
vào năm 1954, và vị Chỉ huy trưởng là Thiếu tá André Édouard Turcat,
một phi công tài ba, tốt nghiệp từ Trường Polytechnique. Ông là tác
giả cuốn “Mécanique du Vol” của nhà xuất bản Dunod, là cuốn sách dậy
về lý thuyết bay của các phi cơ, thời ấy được giảng dậy tại các trường
kỹ sư quốc gia. Cuốn sách đó tôi mang theo và đã xin ông ký vào trang
đầu để làm kỷ niệm. Hơn ba mươi năm sau, tôi lại gặp ông, và cả hai
người đều ở những địa vị khác. Ông Turcat giờ là một nhân vật nổi
tiếng quốc tế trong ngành Hàng không và Không gian. Trường huấn luyện
phi công bay thử nghiệm của Pháp, thành lập năm 1946 ở Brétigny, tới
năm 1962 thì được chuyển về căn cứ Istres Le Tube, gần Marseille thuộc
miền Nam nước Pháp và có tên là École du Personnel Navigant d’Essais
et de Réception (EPNER) và là một trong 4 trường huấn luyện phi công
bay thử nghiệm (test pilot school) có uy tín nhất trên thế giới tự do.
Ba trường kia là Empire Test Pilot’s School (ETPS), United States Air
Force Test Pilot School (USAFTPS) và United Stated Naval Test Pilot
School (USNTPS). Trường Empire Test Pilot được thiết lập ở miền
Wiltshire, Anh Quốc do hợp đồng giữa Bộ Quốc Phòng Hoàng Gia Anh và
một công ty tư nhân. Sự hợp tác này, với các chuyên gia và huấn luyện
viên thượng thặng, tuyển mộ từ ngoài quân đội, đã đưa đến chuyện đào
tạo những phi công và cơ khí viên chuyên về bay thử nghiệm những phi
cơ mới được sáng chế và thành quả tốt đẹp đến nỗi chương trình huấn
luyện trở thành mẫu mực cho EPNER của Pháp, trường huấn luyện USAFTPS
của Không Quân Hoa Kỳ ở Edwards Air Force Base, California và trường
huấn luyện USNTPS của Hải Quân Hoa Kỳ ở Maryland.
Với vốn học từ École Polytechnique và nói được tiếng Anh lưu
loát, Ông André Turcat đã có công rất nhiều trong sự hợp tác để trao
đổi kinh nghiệm bay thực nghiệm giữa bốn trường huấn luyện phi công
nói trên ở ba cường quốc hàng không là Anh Quốc, Pháp Quốc và Hoa Kỳ.
Ông được thế giới hàng không biết tiếng khi ông hoàn tất chương trình
bay thử nghiệm của chiếc Nord 1500 Griffon, là một trong những phi cơ
đầu tiên dùng động cơ ramjet. Ông được trao cúp Harmon năm 1958 khi
đạt được kỷ lục bay Griffon tới tốc độ Mach 2.19. Năm trước đó người
được giải Harmon là Thống tướng Curtis E. LeMay, người đã có công xây
dựng lên Strategic Air Command, và hiện là đương kim Tư Lệnh Không
quân Hoa Kỳ. Sau chương trình Griffon, Thiếu tá Turcat được mời vào
hãng Sud Aviation và làm phi công trưởng cho chương trình chế tạo SST
Concorde là một chương trình hợp tác giữa Anh và Pháp quốc chế tạo
loại phi cơ chở hành khách đạt được hai lần tốc độ âm thanh
(Supersonic Transport), nhằm mục đích giúp cho những hành khách cần
tiết kiệm thời gian, như những kinh tế và kỹ nghệ gia, thường xuyên đi
lại giữa Âu châu và Mỹ châu, rút ngắn thời gian bay qua Đại Tây Dương
còn một nửa. Ngày 2 tháng 3 năm 1969, ông Turcat có vinh dự cất cánh
chiếc phi cơ Concorde thử nghiệm bay lần đầu tiên. Bẩy tháng sau, vào
ngày 1 tháng 10 năm 1969, ông là người đưa phi cơ Concorde vượt tường
âm thanh lần đầu tiên, và sau đó tiếp tục nhiệm vụ giám đốc phi vụ thử
nghiệm của chiếc phi cơ cho đến lúc hoàn tất, bay đường trường mà đạt
được hai lần vận tốc âm thanh. Chương trình Concorde có hai phi cơ mẫu
và chiếc thứ hai được chế tạo tại Anh quốc và những chuyến bay thử
nghiệm của phi cơ này được giao cho phi công tài ba Brian Trubshaw.
Cũng qua những chuyến bay song hành như thế này mà có sự trao đổi chặt
chẽ về kỹ thuật bay thử nghiệm phi cơ giữa những Trường huấn luyện nói
trên.

Hiệp Hội Phi Hành Gia Thử Nghiệm (Society of Experimental Test
Pilots) hàng năm có trao giải mang tên Ivan C. Kincheloe để tưởng niệm
thành viên này trước là phi công anh hùng chiến tranh Đại Hàn, nhưng
sau bị tử nạn khi bay thử nghiệm phi cơ F-104. Hai ông André Turcat
thuộc Aérospatiale của Pháp và Brian Trubshaw thuộc British Aircraft
Corporation của Anh đã được giải này năm 1971 về công trình thử nghiệm
phi cơ Concorde. Trước đó một năm. giải Ivan C. Kincheloe được trao
cho phi hành đoàn không gian của Apollo XI là Neil A. Armstrong, Edwin
E. Aldrin và Michael Collins đã bay lên Mặt trăng và trở về an toàn.
Tôi gặp lại ông Turcat khi ông đã lên tới tuyệt đỉnh danh
vọng, được nhiều huy chương và được vinh danh ở nhiều nước. Tuy không
được học bay với ông nhưng tôi vẫn coi ông là bậc thầy và đặc biệt
kính trọng ông về đức tính khiêm nhường. Ông thật là một người văn võ
song toàn vì sau này được quen biết với ông, tôi cũng được biết ông
còn có bằng tiến sĩ quốc gia về văn chương của Đại học Aix en Provence
với chuyên khoa là kiến trúc thời Trung Cổ. Cuốn sách ông ký tặng cho
tôi khi còn là một khoá sinh học bay trên đất Pháp sau này tôi vẫn
dùng để soạn bài dậy những lớp kỹ sư ở Đại học Michigan. Sau gần bốn
mươi năm, với kỹ thuật hàng không tiến triển vượt bực, nhiều động cơ
phản lực cao cấp được xử dụng, và những hiện tượng triệt nâng ở tốc độ
siêu thanh được hiểu rõ hơn qua nhiều chương trình khảo cứu về khí
động lực học, tôi đã viết lại lý thuyết bay ở tốc độ siêu thanh thành
một cuốn sách với đề là “Flight Mechanics of High-Performance
Aircraft” và được Cambridge University Press nhận xuất bản.

Tôi đã nghĩ đến sự hợp tác tuyệt vời giữa Anh và Pháp quốc
để chế tạo lên phi cơ SST Concorde, một thời đã lưu lại trang sử đẹp
cho ngành Hàng không chuyên chở thế giới. Nếu Đại học Cambridge ở Anh
quốc xuất bản cuốn sách này trong loại Aerospace Series của họ mà sách
của tôi viết được lời giới thiệu của ông André Turcat thì tôi chắc
chắn là cuốn sách học mà tôi đã để nhiều năm viết rất công phu sẽ được
các chuyên gia và các nhà giáo dục và khảo cứu trên thế giới nhiệt
thành đón nhận. Là một thành viên và là người gốc Á châu đầu tiên được
bầu vào Hàn Lâm Viện Quốc Gia Hàng Không và Không Gian Pháp (Académie
Nationale de l’Air et de l’Espace) tôi gửi bản thảo cuốn sách cho ông
André Turcat, lúc đó đang là Tổng Thư Ký của Hàn Lâm Viện và xin ông
nếu được thì viết cho Lời Mở Đầu. Tôi đề nghị là ông có thể viết bằng
tiếng Pháp và tôi sẽ dịch sang tiếng Anh để ông duyệt lại trước khi
cho sách in. Ông đã nhận lời và khi đọc bài viết tay của ông tôi đã
sững sờ khi thấy bài giới thiệu rất ân cần khen ngợi cuốn sách và ở
câu kết, ông đã viết: “En m’inclinant devant ses exploits
extraordinaires, …” . Vì ông André Turcat là bậc đàn anh và là người
từ lâu tôi hâm mộ nên lòng kính trọng ông không cho phép tôi dịch
nguyên văn câu đó như là ông đã “nghiêng mình trước những thành tích
của tôi …” và trong bản dịch tôi đã dùng những chữ nhẹ nhàng hơn. Cuốn
sách của tôi đã được in ra với bìa cứng từ năm 1993, và được phổ biến
rộng rãi với dạng bìa mỏng từ năm 1995 và nếu độc giả có vào một thư
viện đại học nào để tìm đọc thì thấy ở lời Forword của ông André
Turcat, ông đã giới thiệu tôi như là một người bạn thân và đồng nghiệp
và kết luận bằng những dòng chữ:

“With my salutation for the author’s exceptional career and his gentle
character, I am happy and honored to introduce the present treatise”.

André Turcat
Former Pilot and Director of
Flight Tests for the SST Concord
General Secretary of the Académie Nationale
De l’Air et de l’Espace.

Tôi cũng có nhiều học trò là sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Đặc biệt
có một người tôi chú ý đến hơn cả là anh Fred Frostic. Thời điểm
68-70, khi học tôi ở Đại học Michigan, anh là thiếu tá phi công F-4C
Phantom. Sau này anh lên Đại tá chỉ huy một không đoàn F-16. Một dạo
tôi nghe tin anh đã rời quân đội và trở thành chyên gia nghiên cứu ở
Rand Corporation là cơ quan nghiên cứu chiến lược có uy tín ở Hoa Kỳ.
Mấy năm sau này tôi không được tin của Fred. Cuối mùa đông, trước năm
tôi xin nghỉ hưu, tôi nhận được bản tin hàng tuần loan báo có buổi nói
chuyện với phân khoa chúng tôi mà diễn giả là “Fred Frostic, Deputy
Assistant Secretary of Defense”.

Chức vụ này rất lớn. Trước đó mấy tháng, Đại hội năm 96 của hội
Khoa Học Kỹ Thuật Việt Mỹ đã mời được một vị khách đặc biệt là ông Sid
Lawrence J. Goffney, Jr. cũng có chức vụ tương đương là Deputy
Assistant Secretary of Commerce, thuộc bộ Thương Mại đến làm diễn giả
đặc biệt. Tôi đã nói chuyện với ông và được biết trách vụ của ông thât
rộng lớn. Điều này thực không lạ vì chính phủ liên bang Hoa Kỳ có
trách nhiệm trên 51 tiểu bang và ảnh hưởng nhiều đến thế giới. Được
tin ông Frostic tới nói chuyện tôi đã hỏi vị giáo sư bạn phụ trách mời
các vị diễn giả hàng tuần thì ông ta nói đúng là anh Fred, cựu sinh
viên mà, trong văn thư trao đổi, ông thứ trưởng bộ Quốc phòng này có
nói trước kia làm khảo cứu với tôi.

Theo thường lệ, thì diễn giả được mời, hay tới trường tôi vào
khoảng 10 giờ sáng để gặp gỡ và thảo luận với một số giáo sư cùng
chuyên môn khảo cứu. Sau đó thì một số sẽ cùng với khách phương xa và
giáo sư phụ trách mục diễn thuyết hàng tuần tới câu lạc bộ giáo sư để
ăn trưa trước buổi diễn thuyết ấn định vào buổi chiều.

Sáng hôm sau tôi đến trường như thường lệ, vào khoảng 9 giờ.
Cửa phòng học của tôi bao giờ cũng mở. Tôi nhớ đến chàng Thiếu tá
Không quân khi xưa, phi công khu trục Fantom F-4C, khá bảnh trai, tuy
hoạt bát nhưng thật ra hiền lành. Đó là theo ý nghĩ của tôi, vì tôi
cũng đã đối xử với anh trong tình bạn, giữa những người đã cùng bay
bổng trên mây trời. Như Đại tá Trần Thanh Điền, như Ông Trung tướng
Không quân Trần Bang Đạt ờ Đài Loan, như Nhà thơ Du Tử Lê, như ông
Giáo sư ở Đại học Purdue và nhiều người khác nữa tôi đã gặp và tôi coi
như trong tình bằng hữu, tôi tin rằng ông Frostic khi tới trường thế
nào cũng sẽ tìm gặp tôi.

Đúng như vậy, vào khoảng hơn mười giờ sáng, tôi thấy anh tới
phòng, chào và nói một câu tôi nghe quá quen thuộc. Dịch ra tiếng Việt
thì anh đã nói: “Tôi là Frostic đây, thầy còn nhớ tôi không?”

GS Nguyễn Xuân Vinh
Trích trong Tập truyện “Vui Đời Toán Học”{jcomments on}

Leave a Reply

Your email address will not be published.