Đoá Hoa Vô Thường

Hai người đàn ông mở cánh cổng gỗ thông ra khu vườn nhỏ. Cả hai chỉ độ
gần sáu mươi, tóc đã lốm đốm bạc. Một người dáng cao cao mạnh mẽ, còn
người kia thấp nhỏ hơn, nét mặt trầm ngâm, hình như đang nghĩ ngợi
điều gì.

Đó là một khu vườn mang dáng dấp Á Đông, rải rác những loại cây vùng
nhiệt đới, ven rào là vài bụi tre trúc đủ loại, chủ nhân có vẻ là một
người biết hưởng thú điền viên với cây cỏ. Nhưng đặc biệt giữa khu
vườn nhỏ lại là một hồ sen, tuy đã vào cuối hạ lập thu mà trong hồ vẫn
nở rải rác vài nụ sen trắng, sen hồng. Trên chiếc lá sen buổi sớm còn
đọng lại những giọt sương đêm, lóng lánh như những viên kim cương khi
tia nắng đầu ngày vừa lên. Hương sen rất nhẹ, khách nghiêng mình vít
một bông sen để thưởng thức mùi hương thật dịu mà có lẽ đã lâu lắm
rồi, đến mấy mươi năm khách mới tìm lại được mùi hương ấy. Hai người
không nói với nhau câu nào, dường như ai cũng sợ kinh động sự yên tĩnh
của một buổi sớm mai, có con chim xanh đậu trên bờ rào hót líu lo. . .

{jcomments on}

 

Dưới gốc cây đào xum xuê, tạo thành bóng mát đủ che một cái bàn vuông
và bốn chiếc ghế thấp, chủ khách ngồi thưởng thức chén trà với cơn gió
thoảng mùi hương sen. Trà cũng thơm ngát mùi hương sen, chủ nhân đã
cầu kỳ gói nhúm trà trong chiếc túi vải, bỏ vào cái nụ sen sắp nở ướp
suốt đêm ngoài trời, sáng mới đem đãi khách. Nhấp tách trà thơm, hai
người bạn già kể nhau nghe nhiều chuyện cũ, trong ấy có chuyện về đóa
sen trắng và những hạt sương long lanh trên chiếc lá sen màu xanh biếc.

* * *

Đó là một chiều mùa hè, Viễn say mê đứng nhìn những bông sen trắng,
hồng vươn mình lên trên mặt nước ở chiếc ao sen cạnh ngôi chùa cổ. Lá
sen xanh biếc, to như những cái dĩa tròn màu xanh, nếu là buổi sớm khi
giọt sương còn đọng lại trên lá, dưới ánh mặt trời giọt sương ấy y như
một viên kim cương lóng lánh, trong suốt.
Cơn gió chiều đưa mùi hương sen thoảng qua, mùi hương dịu dàng thanh
khiết quá khiến Viễn như chìm vào cái tịch mịch của chốn thiền môn.
Trong sự yên tĩnh ấy, lẫn với tiếng reo của tre trúc trồng rải rác ven
bờ giậu, mái chùa cong tạo thành một đường viền lên nền trời xanh
giăng giăng những giải mây trắng. Hít thở mùi hương sen trong không
gian tinh khiết của buổi chiều êm ả, Viễn mơ màng nhìn theo những giải
mây bay lang thang, vài cánh chim bay qua điểm những chấm màu đen buồn
rầu lên nền trời bát ngát. Không biết những giải mây kia bay đi đâu,
và những cánh chim có phải đang tìm về tổ ấm?

Hằng tuần, Viễn có ba buổi chiều đến chùa đón cô em gái đang học lớp
Hán Văn do ni cô Diệu Linh hướng dẫn. Cô bé tự nhiên thích đến chùa để
tìm tòi học kinh Phật, những câu thơ cổ bằng Hán tự. Lớp học là một
cái chái của ngôi chùa cổ, vách được ghép bằng những tấm phên nứa, khi
ánh nắng của buổi chiều rọi vào tạo nên một khoảng tranh tối tranh
sáng rất đẹp mắt. Viễn có lần tò mò nhìn vào, chỉ độ mười cô học trò
với một ni cô còn rất trẻ, đang nắn nót viết những chữ Hán trên chiếc
bảng đen, bàn tay gầy với những ngón nhỏ khiến chàng ngây ngây một cảm
giác lạ lùng, vì bàn tay ấy bỗng đẹp như một đóa sen trắng trên mặt ao
sóng gợn.

Thấp thoáng trong chấn song bằng nứa là khuôn mặt cuả người sư nữ,
thanh thoát và dịu dàng dưới nếp khăn màu xám nhạt, cả tấm áo màu lam
nhạt cũng đủ làm nền cho đôi mắt đen long lanh như hai hạt nhãn. Từng
chấm sáng lay động trên dãy bàn học bằng gỗ nâu xậm, tạo nên một bức
tranh nửa sáng nửa tối rất tuyệt vời. Không biết vì yêu thích những
đóa sen trắng, sen hồng nở trên ao nhà chùa, hay vì hình ảnh ni cô
trong lớp học, Viễn thường đến đón em sớm hơn giờ tan học. Chàng bâng
khuâng nhìn vào lớp học, len lén nhìn bàn tay xanh gầy của ni cô Diệu
Linh trên bảng đen. Tâm hồn chàng lãng mạn quá, có ai lại đi yêu một
bàn tay trên tấm bảng đen, rồi từ chỗ tơ tưởng ấy, có lúc Viễn đã bồi
hồi khi mơ ước một lần được nắm và hôn lên bàn tay mềm mại ấy.

Ni cô Diệu Linh còn trẻ lắm, chỉ nhỉnh hơn cô em gái chàng độ vài
tuổi, nhưng căn duyên nào mà lại gửi đời vào chốn thiền môn? Ai bắt
Viễn phải băn khoăn tìm hiểu, nhưng mỗi câu chuyện về lớp học do cô em
gái kể lại, đã khiến chàng tò mò hơn, và hai chữ Diệu Linh như chút gì
êm dịu lắm cứ lởn vởn trong óc chàng. Những câu chuyện nho nhỏ từ cô
em gái, hôm nào không chở em đi học và đón em về Viễn lại bâng khuâng
buồn. Hôm nay ni cô Diệu Linh nấu chè hạt sen cho cả lớp thưởng thức.
Hôm nay ni cô Diệu Linh dạy bài Nhân Quả cho cả lớp nghe. Hôm nay ni
cô Diệu Linh trồng cây hoa ngâu gần bể nước. Lúc nào câu chuyện của cô
em cũng là ni cô Diệu Linh, hình như từng lời nói, việc làm của ni cô
Diệu Linh đều tác động lên tâm hồn cô em nhỏ, rồi thấm thía đi luôn
vào lòng người anh trai. . .

Đôi khi nhớ lại, Viễn cho rằng chuyện gì xảy ra trên cõi đời này, đều
do cơ duyên mà tới, muốn cũng không được, chạy trốn cũng không xong.
Đấy là chuyện tình cờ chàng lại gặp ni cô Diệu Linh trong giảng đường
Đại học Văn khoa ngày đầu năm học, mắt nhắm mắt mở chạy vội đến trường
vì dậy muộn. Viễn dáo dác tìm chỗ ngồi, và không ngờ lại len vào được
một chỗ trống trong khu giảng đường gần đầy nghẹt sinh viên. Khi an
vị, Viễn bỗng giựt mình khi thấy ni cô Diệu Linh ở ghế bên cạnh,
nghiêm trang nghe giáo sư giảng bài, đôi mắt đen to tròn ấy thỉnh
thoảng nhìn xuống tập giấy trắng trên mặt bàn, ghi ghi chép chép. Tự
nhiên Viễn như bị cuốn hút vào bàn tay có những ngón tay xanh gầy của
ni cô, mảnh dẻ và yếu ớt đến tội tình.

Nàng đi học. Ước gì Diệu Linh là một cô sinh viên Văn khoa bình thường
như mọi người để Viễn không phải luống cuống, tấm khăn màu lam nhẹ
trên đầu và chiếc áo tu hành đã là một hàng rào cản bước chân mạo hiểm
của chàng vào khu vườn cấm. Phiền nỗi ở đời hễ cái gì càng khó lại
càng kích thích lòng ham muốn, Viễn buồn cười ngẫm nghĩ đến những quả
táo thơm tội lỗi trong vườn Địa Đàng thuở xưa, nếu là chàng thì không
bao giờ bắt tổ tông loài người trả cái nợ “đồng lần” ấy . . .

Nhận ra người thanh niên vẫn hay tới chùa đón cô em là học trò của
mình, ni cô Diệu Linh có vẻ hơi bối rối, nhất là đôi mắt kia tuy không
nhìn cô với cái nhìn hỗn xược, nhưng dường như lúc nào cũng mang một
vẻ đắm đuối. Cô mỉm cười. Lần đầu tiên Viễn lại bị cuốn hút vào nụ
cười của cô, có lẽ nụ cười ấy dành cho cả thế giới chứ không riêng
mình chàng, nhưng lúc ấy đầu chàng lẫn lộn, si mê đến nỗi cứ cho là cô
đang mỉm cười với riêng mình, và nụ cười hiền dịu ấy, quả là một bông
sen trắng vừa hé nở. Đẹp, đẹp quá, tất cả ở cô đều toát ra sự thanh
cao của một đài hoa sen vươn lên trên mặt hồ, và mùi hương toát ra từ
cô, cũng là mùi dìu dịu của đóa sen vừa hé nở. Suốt buổi học hôm đó,
Viễn không nghe được bao nhiêu bài giảng của giáo sư, lòng ngất ngây
sung sướng vì ngẫu nhiên chàng lại được ngồi gần ni cô Diệu Linh,
người chàng thầm yêu trộm nhớ.

Oan nghiệt! Quả là oan nghiệt khi chàng đặt tình yêu không đúng chỗ,
giá như khi hiểu được vậy mà chàng tìm cách để tránh đi cái vòng oan
nghiệt ấy thì lòng chàng đã không phải ray rứt, thương hoài đóa sen
trắng. Sau buổi học, Viễn vội vã đạp xe theo sau đuôi người sư nữ,
buổi trưa trời mưa lưa thưa, chỉ đủ ướt những lá cỏ, Viễn thú vị nhớ
mấy câu thơ của Phạm thiên Thư “….em tan trường về, đường mưa nho
nhỏ”. Buổi trưa hôm ấy Viễn cảm thấy yêu đời làm sao, chàng ước rằng
con đường cứ dài mãi ra thì ngôi chùa đã hiện ra trước mặt, bóng người
sư nữ đã khuất sau hàng cây bồ đề trên lối đi trước cổng chùa.

Năm học ấy quả là đẹp quá, đẹp nhất trong đời sinh viên của Viễn.
Chàng dự định trong tương lai, nếu không phải đi lính, Viễn sẽ đi dạy
học, ngôi trường Trung Học của ông anh họ thế nào cũng dành cho chàng
một chỗ. Từ hôm ấy Viễn chăm chỉ đến trường rất sớm, hồi hộp mong đợi
bóng dáng nhỏ nhắn, mảnh dẻ của ni cô Diệu Linh, nụ cười e ấp khiến
khuôn mặt cô bừng sáng lên như một đóa huệ trắng. Bây giờ có lẽ bao
nhiêu thứ hoa trên đời này chẳng có thứ nào ví von được với dung nhan
xinh đẹp ấy, chỉ có mùi hương của hoa sen và vẻ trong sáng của hoa huệ
mới diễn tả được nét kiều mỵ trên khuôn mặt thanh tú của Diệu Linh.
Ngoài ra, Viễn còn được thấy cô luôn, vì em gái vẫn chăm chỉ đến chùa
học Hán tự. Ni cô Diệu Linh được cho ra ngoài học thêm vì lý do đó, là
một ni cô trẻ tuổi, có học, cô cần có kiến thức rộng rãi để nghiên cứu
và phổ biến giáo lý nhà Phật, đến với những Phật Tử có trình độ hiểu
biết rộng, đạo Phật không thể chỉ đào tạo những ni sư thụ động, chỉ
loanh quanh ở chùa trong nếp sống thanh đạm rau dưa để tìm Phật cho bản thân.

Viễn ôm mối tình câm lặng rồi cứ thắc mắc tại sao một người đẹp như ni
cô Diệu Linh, có ăn học lại chịu gửi thân vào chốn tu trì buồn bã. Đầu
óc tưởng tượng của Viễn đi xa hơn bóng dáng khiêm nhu của người sư nữ
trẻ tuổi. Có khi chàng khoác cho cô chiếc áo dài màu tím hoàng hôn, có
khi chàng nằm mơ thấy được ôm cô vào lòng âu yếm. Sau này chàng mới
biết tại sao người ta lại cho rằng tư tưởng cũng dự phần trong việc
làm cho con người xấu hay tốt, với những rung động phát nguồn từ một
thân thể khỏe mạnh, có lúc chàng đã nghĩ về ni cô Diệu Linh bằng những
mê say rất trần tục.

Năm đó Viễn thi rớt. Mộng được trở thành một giáo sư không thành,
chàng sắp sửa phải lên đường nhập ngũ. Sắp đi lính, Viễn vẫn cứ loay
hoay mãi không biết làm sao tỏ thật được nỗi lòng với Diệu Linh. Lặng
lẽ ra đi hay là viết một lá thư cuối cùng, kẹp vào một cuốn sách Thiền
mới xuất bản, có lẽ Diệu Linh sẽ đọc và hiểu được mối tình câm nín của
chàng. Không gửi được lá thư tỏ tình cho Diệu Linh, Viễn nghe đời
trống vắng vô vàn, và sự ra đi im lặng của chàng để rồi sẽ bị lãng
quên, như một cơn gió thổi chiếc lá rơi xuống sân chùa, để rồi chẳng
ai biết, chẳng ai hay. Viễn thấy lòng buồn bã khi ngày đi sắp tới,
hình bóng của Diệu Linh vẫn ám ảnh mãi với những ngón tay thon dài gầy
guộc, xanh xao làm Viễn xốn xang. Không chịu nổi những dằn vặt của tâm
hồn, Viễn nhất định gửi đi lá thư tỏ tình mà cũng là lời từ biệt nếu
như ni cô Diệu Linh trốn tránh mối tình bồng bột của chàng, để mai này
chàng đi xa, sống hay chết, hình ảnh và mối tình của chàng ít là cũng
đọng lại mãi trong tâm tưởng của người sư nữ.

Lá thư gửi đi để rồi vẫn chỉ là sự im lặng của ni cô Diệu Linh. Trước
khi đi lính, Viễn có đến chùa lần chót, bây giờ lớp học chiều đã tạm
ngưng nên cô em của chàng không còn đi học như độ trước. Buổi chiều
cửa Phật không còn xôn xao những tiếng nói cười của những cô học trò
Phật tử, nắng quái chiều hôm vẫn nghiêng vai chiếu vào lớp học những
vệt nắng buồn ngây ngất, cảnh vật quanh chùa hình như cũng cô đọng một
nỗi buồn yên lặng đến mênh mang.

Lần sau cùng Viễn đến chùa là một sáng cuối hè, nắng dịu, bất ngờ thấy
ni cô Diệu Linh đang tưới cây trong vườn. Nét mặt cô nghiêm trang, hơi
xanh xao trong tấm khăn màu xám nhạt. Bất chợt gặp Viễn, dường như cô
hơi lúng túng, nửa muốn tiếp tục làm việc, nửa muốn đi vào hậu liêu,
Viễn thấy đôi mắt cô thoáng một chút ngại ngùngï. Nhưng chỉ vài phút
yên lặng, Diệu Linh đặt thùng nước xuống chân và chắp tay chào chàng,
như thói quen vẫn chào những Phật tử đến thăm chùa. Viễn nhìn chăm
chăm vào khuôn mặt dịu hiền của Diệu Linh, lấy hết can đảm để nói nốt
những điều chàng muốn nói:

“Tôi đến thăm chùa lần chót, để từ giã. Ngày mai tôi đi rồi, biết khi
nào mới được trở lại…”

Diệu Linh cũng im lặng, đôi mắt trầm ngâm nhìn ra mặt ao, những bông
sen trắng nở lác đác lẫn trong những chiếc lá xanh, nhô mình lên trên
mặt ao xanh biếc. Viễn nói:

“Tôi biết mình không phải, khi đem con tim đặt vào một nơi không phải
chỗ của nó, xin cô tha thứ. Nhưng nếu không nói được điều này, có lẽ
cả đời tôi sẽ im lặng với một nỗi buồn, nhất là đời lính sẽ đưa tôi đi
xa, xa mãi, đầy những bất trắc của chiến tranh.”

Diệu Linh thở nhẹ, hai người đứng gần nhau đến nỗi Viễn ngửi được cả
hơi thở của nàng lẫn với mùi hương sen. Cô nói nhỏ:

“Mình chỉ là bạn, bạn học. Mỗi người có một lý tưởng khác nhau, tôi đã
chọn con đường này khi chỉ là cô bé mười lăm tuổi. Sau những đổ nát
của gia đình, tôi nhìn ra cái khổ của kiếp người, và tôi cho là mình
đã đi đúng con đường mình đã chọn lựa.”

Viễn hấp tấp ngắt lời cô:

“Tôi không quan niệm trốn tránh điều đau khổ để tìm cho mình một sự
giải thoát, càng lăn vào nỗi đau khổ mình sẽ tìm ra hạnh phúc. Như
người lính nếu không ra chiến trường lao vào vùng lửa đạn, tìm đâu ra
sự bình yên cho người khác.”

Diệu Linh mỉm cười, nụ cười tự tin khi biết mình khó bị lay chuyển:

“Mỗi hạt cát có hình thể khác nhau, mỗi con người có một đời để sống.
Nhưng nói chung, nếu mục đích nào cũng đem lại cho đời sự tốt đẹp của
nó, thì không so sánh được hoàn cảnh này với hoàn cảnh kia. Không trả
lời được lá thư của ông, tôi mong ông cũng hiểu cho rằng, đời tôi
không thể thuộc về một người, vì nó là của chúng sinh. Con người tôi
được sinh ra là để phục vụ mọi người, như ý nguyện của tôi từ khi chớm
hiểu biết. Ông hãy quên tôi đi, thân phận nhỏ nhoi của một hạt cát.”

Những lời lẽ vừa từ tốn, vừa quyết liệt của ni cô Diệu Linh khiến Viễn
lặng người, một chút hối hận dâng lên trong lòng, chàng tự trách mình
quá bồng bột đã phá vỡ sự yên tĩnh trong tâm hồn Diệu Linh. Nhưng
thôi, “thà như giọt mưa, rớt trên tượng đá, có còn hơn không, có còn
hơn không…”, chưa bao giờ chàng lại cảm phục được ý thơ của người
làm thơ như lúc này. Cho đến giây phút đó, chàng vẫn bướng bỉnh cho
rằng chính chàng đã biết sống, can đảm sống và can đảm nói những điều
mình mong mỏi. Còn con đường tu hành của Diệu Linh, chẳng qua chỉ vì
bi quan, yếm thế, thấy cái khổ của đời đã vội chạy trốn để tìm sự giải thoát.

Trước khi từ biệt, hai người còn đứng lại trước sân chùa, đôi mắt dịu
dàng của Diệu Linh vẫn nhìn ra chiếc ao sen có những bông sen trắng,
dường như cô muốn gửi hết nỗi buồn của sự biệt ly, vào những đóa hoa
vô thường nơi cửa Phật. Hình ảnh cha mẹ, anh em đã chết vì một quả đại
bác rớt vào thành phố một đêm mùa Xuân năm nào như vẫn còn đó, trong
khi cô bé may mắn thoát được vì đi thăm bà ngoại của cô ở một thành
phố khác, được bà giữ lại vài hôm để bà cháu hủ hỉ. Âu là định mệnh,
ông Trời đã sắp xếp quá đau buồn để cô bé mười lăm tuổi ở lại trần
gian có một mình, một mái gia đình đang đầm ấm hạnh phúc bỗng trong
một đêm chỉ còn là cảnh tang tóc, tử biệt. Từ đấy, Diệu Linh về ở với
bà ngoại, nhà ở gần một ngôi chùa. Ngày nào sau giờ học, Diệu Linh
cũng sang chùa để gần gũi với mấy ni cô đang trụ trì trong ngôi chùa
nhỏ vùng ngoại ô, cô bé đã tìm được tình yêu thương, nỗi chia xẻ cho
thân phận một cô bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cô cũng hằng ngày nhìn thấy
những mất mát tương tự, những “sinh ly tử biệt” giữa một đất nước
chiến tranh bày trải trước mắt. Bởi vậy khi bà ngoại qua đời, Diệu
Linh học xong Trung Học, cô bé cởi chiếc áo trắng tuổi học trò để
khoác cho mình chiếc áo màu lam nhạt. Màu áo của sự tĩnh lặng, của
khiêm nhu và chịu đựng, cô xa dần những phồn hoa không thực của cuộc
đời muôn mặt.

Trong yên lặng ni cô Diệu Linh hồi tưởng một mình về dĩ vãng. Những
bày tỏ sôi nổi về tình yêu của chàng sinh viên trẻ đứng trước mặt cô,
mai đây chỉ một thời gian sẽ trở thành người lính. Người ấy sẽ đi đâu,
cuộc chiến sẽ đem anh ta đến phương trời nào, những đạn bom, những
chiến trường khét mùi thuốc súng, anh ta có trở về?

Bất chợt giây phút ấy, cô nghe tiếng nói êm đềm của người thanh niên
si tình kia:

“Hôm nay đến chùa vào buổi sáng, tôi mới thấy rằng hoa sen đẹp quá, mà
hương sen thì thanh khiết vô cùng. Diệu Linh, cô nhìn xem hạt sương
còn đọng trên chiếc lá sen, đẹp như một viên kim cương diễm lệ. . .”

Đôi môi Diệu Linh mấp máy, cô nói khẽ lắm, nhưng câu nói buổi sáng hôm
ấy như đọng lại trong tâm tư Viễn suốt một đời không phai:

“Vâng thưa ông, những giọt sương chỉ đẹp khi nó nằm trên chiếc lá sen,
dưới ánh mặt trời mà thôi. Ông để nó trên tay, nó cũng chỉ là một giọt nước.”

* * *

Viễn nhập ngũ. Bỏ lại đời sinh viên và căn gác xép bừa bộn những kỷ
niệm một thời tuổi trẻ. Bỏ lại tất cả để đi vào một cuộc đời khác, đời
lính nhiều tập tành gian khổ nơi quân trường, và khi ra trường được
thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến. Khi ấy, chàng mới thấu hiểu được
những đau khổ của con người, mới thực sự đồng cảm với ni cô Diệu Linh,
và thông cảm với cô khi chọn con đường tu hành để dâng hiến cuộc đời
cho tha nhân.

Những ngày lặn lội hành quân trên vùng Đồng Tháp Mười, sông rạch chằng
chịt nơi vùng đồng bằng tôm cá, lúa gạo đầy ắp nhưng đời sống phập
phồng trước lằn tên mũi đạn. Có những nơi chàng đi qua, rừng dừa sơ
sác và những ao truôm đầy hoa sen, hoa súng. Trời vẫn ban cho trái đất
chút tươi mát của cỏ cây, nếu không, trước mắt chàng tất cả những vùng
chàng đi qua, con người như ngơ ngáo chờ đợi cái chết đến không biết
đâu mà tránh. Giữa tên bay đạn lạc, đôi khi lòng chàng vẫn ngất ngây
vì cảnh đẹp của một ao sen miền thôn dã, mà những đóa sen trắng, hồng,
vẫn phảng phất trong gió mùi hương sen rất dịu dàng. Những lúc đó lòng
chàng lại nhớ đến ni cô Diệu Linh, trong lần nghỉ phép khi sắp ra đơn
vị, chàng có đến chùa nhưng được biết ni cô Diệu Linh đã đi tu học ở
một nơi khác, không ai nói cô đi đâu, chỉ có mình Viễn mới hiểu được
sự thay đổi này.

Hai năm vào lính đã đào tạo cho Viễn sự trưởng thành, để thấu hiểu và
phân biệt thế nào là sự đau khổ và hạnh phúc. Viễn đã nhìn thấy cái
khổ của người dân trong vùng xôi đậu, Viễn đã nhìn thật gần xác anh em
đồng đội bầy nhầy, nát bấy, méo mó, giá lạnh trong những tấm “poncho”
nhà binh, những đôi mắt thất thần của trẻ con, những tiếng khóc bằn
bặt, đôi vai gầy run run của bà mẹ già gục xuống trên xác con, và vành
khăn trắng quấn trên đầu người vợ trẻ. . ..

Giây phút ấy chàng hối hận vô cùng, chút nữa thì Viễn đã lôi kéo ni cô
Diệu Linh vào nỗi khổ này, nếu như ngày ấy. . . Ôi mỗi ngày thức dậy
là chờ chực những khổ đau sẽ tới, thì ra Diệu Linh đã nhìn ra và chọn
lựa đúng con đường của nàng, mà đối với tâm hồn bồng bột của tuổi
thanh niên, Viễn cho rằng ít ra một lần, chàng sẽ là giọt mưa rớt trên
tượng đá. Cũng may, may thật là may, hình ảnh ni cô Diệu Linh vẫn ở
trong trái tim chàng, nhưng không bị chàng giữ lấy một mình và lôi kéo
vào nỗi đau khổ giữa lằn ranh sống, chết của người lính. Chỉ tiếc rằng
chàng đã bồng bột làm khuấy động tâm hồn của người sư nữ trẻ tuổi ấy,
với cái ích kỷ của đàn ông, biết đâu rằng dù Diệu Linh quyết chí gửi
đời mình vào cửa Phật, nhưng tâm tư cô làm sao khỏi có lúc không nghĩ
về Viễn.

Viễn bị thương trong một lần hành quân chạm địch, chàng bị thương khá
nặng, phải đưa về bịnh viện Cộng Hòa dưỡng thương một thời gian dài.
Bây giờ mới là lúc Viễn nhìn ra cái đau khổ của thân xác, của chính
mình và của anh em đồng đội trong Quân Y viện, chàng lại càng hiểu ra
cái khổ của kiếp người, cái mất còn của cõi nhân gian. Chồng chất lên
đời sống đầy rẫy những khổ đau này nối tiếp những khổ đau khác, chàng
lại càng hay nhớ đến khuôn mặt hiền dịu và những lời nói êm đềm mà
thấm thía của ni cô Diệu Linh.

Khi chiến tranh chấm dứt, Viễn còn trải qua một thời gian nữa trong
tù, đói, khát, bịnh tật, ân oán chập chùng nơi lòng người, kẻ trả
người vay, tiếp tục nối tiếp bởi con người khó gần gũi nhau, thương
yêu nhau. Những lúc quá buồn cho tình đời, tình người, Viễn thường
ngẫm nghĩ đến những đóa sen trắng trong cái ao gợn màu rêu trước sân
chùa năm xưa, nhớ đến Diệu Linh năm nào đã sớm nhìn ra “tu là cội
phúc, tình là giây oan”.

* * *

Người đàn ông tóc bạc, dáng đậm chắc nhấp một ngụm trà sen thơm ngát,
rồi tiếp tục kể nốt câu chuyện của ông cho bạn nghe:

“Sau hơn hai mươi năm, tôi về thăm quê nhà lần đầu tiên. Nhớ nhà lắm
anh ạ, nhưng có nhẽ lại nhớ cái tuổi trẻ của mình, căn nhà, con đường,
trường học, và ngôi chùa. Ừ, ngôi chùa ngày xưa thuở tôi còn là một
sinh viên văn khoa trước khi đi lính, có bóng dáng ni cô Diệu Linh mà
tôi đã yêu tha thiết. Đến bây giờ tôi mới thấy không có gì tàn nhẫn
bằng thời gian, nó tàn phá tất cả, tôi gần như không còn tìm được
những gì thân quen của nhiều năm tháng cũ. Đấy, kể từ ngày tôi ra đi,
hơn hai mươi năm rồi anh ạ, từ một người lính trẻ thuở nào, nay đã là
ông lính già đi tìm quá khứ, nhưng quá khứ cũng không còn. Sách Phật
dạy rằng chẳng nên ngậm ngùi nuối tiếc dĩ vãng, vì dĩ vãng thì đã qua,
tương lai cũng chưa biết, chỉ còn có hiện tại. Hiện tại thì tôi có một
gia đình, nhưng không hạnh phúc, tôi như người lạc loài vì mãi vẫn
không bắt kịp cái hiện tại xô bồ này, quay trở lại tìm dĩ vãng thì
cũng muôn đời không tìm thấy. Buồn lắm anh ạ!”

Người bạn già vẫn yên lặng lắng nghe, tôn trọng nỗi buồn chất ngất
trong lòng bạn. Ông lơ đãng nhìn đóa sen nở trong chiếc hồ nhỏ, những
cánh hoa trắng muốt, ủ trong lòng hoa là những chiếc nhụy vàng. Hạnh
phúc nhỏ nhoi thế kia mà bạn ông không nắm được, mà những đau khổ lại
vẫn không rũ ra được. Tiếng nói của người bạn cũ vang lên trầm trầm
bên tai ông:

“Tôi đi về quê nhà, như đi tìm lại cái đau khổ của chúng sinh trong
mái chùa cong, chứ không phải tôi định đi tìm lại ni cô Diệu Linh nơi
mái chùa đó. Đấy là một cơ sở nuôi trẻ mồ côi và khuyết tật, cô em gái
của tôi đưa tôi đến mà không hề báo trước cho tôi biết rằng ni cô Diệu
Linh vẫn ở trong ngôi chùa ấy. . . .”

Người bạn nhắp một ngụm trà, ngụm trà vừa nhấp vào hơi đắng nhưng cái
hậu của trà như đọng lại nơi cuống họng ông vị ngọt thật dễ chịu:

“Thế là “quy cố hương” lại “ngộ cố tri”, quả là trái đất vẫn tròn.”

Cả hai cùng cười, ấm trà đã vơi đi một nửa:

“Tôi ngỡ ngàng khi gặp lại ni cô Diệu Linh nơi mái chùa xưa. Bây giờ
cô đã chững chạc và già dặn với thời gian, nhưng dáng vóc vẫn gầy gò,
nhanh nhẹn, đôi mắt của cô không còn đen nhánh nét tươi vui của thời
trẻ tuổi, nhưng khuôn mặt cô vui vẻ, tự tin. Gặp lại tôi cô không hề
bối rối, đến nỗi tôi tưởng là cô không hề nhớ đến những lời tỏ tình
của tôi ngày xưa, vì nó đã thuộc về dĩ vãng. Cô dẫn tôi đi thăm cơ sở
của chùa, thăm mái nhà tình thương mà ở đó là những đứa bé mồ côi, tàn
tật được săn sóc bởi tình thương của những người tu hành. Bao nhiêu
năm trở về, điều thú vị nhất đối với tôi là cái ao sen của chùa vẫn
còn đó, đầy những đóa sen tàn, hoa với nhụy tả tơi rụng trên mặt nước.
Tôi nghĩ đến kiếp người, rồi có lúc nó cũng tả tơi như những đóa sen
tàn, tôi hình dung lại khuôn mặt xinh đẹp của ni cô Diệu Linh năm xưa,
dĩ nhiên nó đã thay đổi rồi với thời gian.”

Người bạn cất tiếng hỏi:

“Anh thất vọng ư? Nếu là tôi, tôi sẽ không bao giờ đi tìm những hình bóng cũ…”

Nghe có tiếng cười vang lên trong nắng sớm:

“Đừng nói như vậy khi anh chưa biết tôi tìm được gì trong chuyến trở
về ngày hôm ấy. Trở lại câu chuyện cũ anh nhé. Sau khi đi thăm các
cháu bé, tôi trở lại nhà khách của chùa để nghỉ chân, ni cô Diệu Linh
đã cho tôi thưởng thức bát chè hạt sen tuyệt trần đời anh ạ. Cô cho
biết đó là những hạt sen thu hoạch sau mỗi độ sen tàn, cô để dành nấu
chè đãi khách thập phương. Lúc ra về, tôi có trở ra ngắm lại vườn sen
và bất chợt cúi nhìn xuống ao, tôi thấy bóng mình rung rinh dưới đáy
nước. Không tìm đâu ra hình bóng của thuở đến chùa lúc ngoài hai mươi
tuổi. Những đóa sen tàn, tàn đi để rồi còn lại những gương sen, có
những hạt sen bùi thơm như bát chè của ni cô Diệu Linh đãi khách thập
phương. Tôi lại nghĩ đến ni cô Diệu Linh, đời cô quả là một đóa hoa vô
thường, dẫu đến khi tàn vẫn không sống một đời vô ích…” …”

0 thoughts on “Đoá Hoa Vô Thường

  1. Nguyễn thị Sài Gòn

    Không duyên nhưng cũng tiếc lắm chứ!
    ngừ ta thường nói:
    “Cầm vàng mà lội qua sông
    Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
    😀

    Reply
  2. TSN.Ngọc Diệp

    Một bài viết hay, nhẹ nhàng nhưng để lại nhiều rung động trong tâm hồn người đọc.

    Reply
      1. Tào Lao

        [quote name=”WHWH”]Hỡi cô bán bưởi bên đàng
        Sao cô…hổng bán cho chàng Tào Lao?[/quote]
        Cô bán bưởi nói rầu mờ, vì Tào Lao uống thuốc Lipitol
        nên không được ăn bưởi ,,,hu hu hu

        Reply
  3. nguyentiet

    Bài viết hay quá,thật cảm động,để lại nhiều xúc động, nhiều suy tư trong lòng người đọc.Cám ơn Nguyên Nhung.

    Reply
  4. Kim Chi Hoàng

    Bài viết của Nguyên Nhung hay đặc sắc, văn phong mượt mà, cốt truyện nhẹ nhàng, thanh thản, bình yên…
    Cám ơn Nguyên Nhung, chúc nhà văn vui, khoẻ, hạnh phúc.

    Reply
  5. Tha Nhân

    Truyện hơi dài, lúc đầu nhìn thấy ngán, nhưng càng đọc càng hay, quá hay.
    Câu chuyện để lại cho người đọc nhiều suy tư về cuộc sống vốn tràn ngập những ưu tư khắc khoải này!

    Reply
  6. Chau Phan

    Nguyên Nhung là nhà văn viết truyện rất nhiều có tăm tiếng ở hải ngoại từ lâu, bài viết của Nguyên Nhung đăng nhiều trên các báo đó các bạn ơi!.
    SAC

    Reply
  7. Thu Thủy

    Bài viết nhẹ nhàng ,sâu sắc ,làm cho ta thấy được
    vẻ đẹp thánh thiện không những ở hình thức mà còn
    tỏa sáng ở tâm hồn ni cô Diệu Linh .
    Trong đời thường còn có rất nhiều Diệu linh mà
    ta chưa biết hết .

    Reply
  8. Xuân Phong

    Một truyện ngắn rất có ý nghĩa trong mùa Phật Đản.
    Ước gì phần trình bày (background, font) đẹp hơn nữa để bạn đọc có thể thưởng thức trọn vẹn câu chuyện tuyệt vời này.

    Admin có thể tham khảo trang cuongdequynhon)

    Reply
  9. Nguyên Nhung

    NN xin cảm ơn tất cả các bạn đã đọc.
    Có một bạn góp ý là nếu như background trình bày đẹp hơn, hay theo mình chữ lớn hơn thì bài viết sẽ thú vị hơn.
    QT có biết tấm hình ni cô là ai không?NN lấy hình mình chụp 10 năm trước, vẽ vời thành ni cô DL đấy, hahaha, xem PPS truyện hay hơn nhiều phải không bạn?
    TRong này, mình có thấy tác giả Song An Châu, anh cũng là một người viết văn làm thơ ở hải ngoại, văn phong cũng giản dị mộc mạc nhân hậu lắm, sống đến giờ này mình mới thấy chẳng có gì vĩnh cửu thì tại sao con người không tìm những niềm vui dễ thương để tâm hồn được an lạc nhỉ?
    QT có thể cho các bạn ấy trang web của NN để họ giải trí cũng được chút vui trong đời sống.
    Thân chúc bạn nhiều thành công, được nhiều yêu mến của mọi người.
    Thân mến
    NN

    Reply

Leave a Reply

Your email address will not be published.