Kỷ Niệm Khó Quên

*Thầy Nguyễn Mộng Giác và các CHS NhấtC

[ Thơ,Tấn, Hương,Thầy, Hồng, Kim Bồng, Tố Anh ]

**Thầy Nguyễn Mộng Giác và các CHS Nhị C Cường Để

Hàng đứng: Huỳnh Văn Đồng, Quang, Trí Nguyên, Thái Công Liên ( đã mất),

Huỳnh Dzũ Chí( khuất sau Thái Công Liên nhưng mình vẫn nhân ra, đã mất),

Chế Trọng Hùng, Kim Huê, Lý Thị Thơ ( đứng sau Ngọc Thạch), Ngọc Thạch,

Đoan Hương, Kim Bồng ( hình như vậy,không dám khẳng định), Ngọc,

Diêu Kim Lan, Nguyễn Lệnh, Nguyễn Hoàng Em ( đã mất), Nguyễn Bùi

Phụng ( đã mất)
Hàng ngồi : Lê Công Dzũng, Thầy Nguyễn Mộng Giác< Nguyễn Tỏa,

Trịnh Xuân Thọ, Hồng Vân Thanh, Trần Bá Lang.
*.Viết tặng qúi Anh Chị Trong nhóm Nhất C và những người bạn thân thiết của tôi
Nguyên Lương
Trên chuyến bay dài từ Dallas về lại Philadelphia tôi nhớ lại
từng kỷ niệm với bạn hữu trong kỳ đại hội CĐ-NTH kỷ niệm 15 năm tại
Houston. Những kỳ đại hội trước, đã bao lần hứa về đây dự nhưng không
làm được, lần này thì có mặt, mới biết mình đã bỏ lỡ bao cơ hội đến
đây để vui với bạn bè từ phương xa tụ về. Trong cái nóng hâm hấp đầy
hơi nước của Houston làm cho mọi người có cảm tưởng mình đang ở Qui
Nhơn, quên mất đây là nơi xa quê hương hơn nửa vòng trái đất, trên xứ
tạm dung. Mùa hè đỏ lửa năm 72, tôi đậu Tú Tài 2, rồi xa dần, xa dần
thành phố biển thân yêu. 40 năm sau, hơn nửa đời người, gặp lại nhau
nơi xứ người, qúi Anh Chị học lớp trên, tôi đã biết được qua những
người bạn bằng e mail trong bao năm qua, bây giờ mới gặp mặt. Anh Chị
vẫn còn trẻ, đẹp và đầy năng lực, so với tuổi đời. 40 năm rồi còn gì!


nhưng không sao, vì chúng ta cùng “tuổi già như nhau” nhưng vẫn mãi
mãi trẻ trung, vui vẻ như ngày nào nơi ngôi trường cũ. Bao nhiêu nước
chảy qua cầu, bao nhiêu đổi thay, và bao nhiêu người mất, còn? thế mà
chúng ta vẫn còn sống và tìm đến nhau, nói cười rôm rả. Không e lệ,
mắc cỡ như ngày nào, mấy chị trong các lớp ban C, những bông hoa đẹp
trong khu vườn Cường Để, nay vẫn còn đọng lại cái “duyên chết người”
ấy qua ánh mắt, nụ cười . Học ban B, lớp chẳng có một bóng hồng nào,
tôi thường lén qua lớp của thầy Nguyễn Mộng Giác, nói là để nghe thầy
giảng Truyện Kiều, nhưng kỳ thực là để ngắm mấy nàng Kiều trong lớp
ban C mà mình thầm yêu trộm nhớ. Không biết có phải vì những hình ảnh
đẹp của các nàng trong lớp ban C ngày nào mà khi Anh Tân, Anh Dzũng
giới thiệu nhóm Nhất C của các anh tôi xin gia nhập ngay. Đã mấy năm
rồi, tin tức gì bên nhóm hai anh cũng đều chia xẻ , quen rồi tôi cứ
tưởng mình là thành viên chính thức, dám cho mình cùng hội cùng thuyền
với các anh chị. Hôm Đại Hội, Anh Dzũng trân trọng giới thiệu từng
người trong nhóm với vợ chồng tôi, qua ánh mắt vừa lạ vừa quen ấy, tôi
tìm thấy nơi qúi anh chị những cái nhìn đầy yêu thương, thân mật, với
thằng em ngoại đạo. Cũng nhờ có chút văn nghệ trong máu, người suốt
đời làm việc khoa học khô khan, tôi nhập vào nhóm của những người quen
sống với chữ nghĩa, thơ văn một cách rất tự nhiên.
Ngồi suy nghĩ miên man trên chuyến bay chật người, tôi lần dở cuốn
đặc san CĐ-NTH mà anh Dạn vừa tặng hôm Đại Hội. Cũng vì có cảm tình
đặc biệt với quí anh chị trong nhóm Nhất C, tôi tìm đọc ngay những bài
viết của thành viên nhóm này trong đặc san. Gần 450 trang sách dày,
đầy ắp chữ, bài đầu tiên tôi tìm thấy là của Anh Lê Công Dzũng ở trang
208 với tựa “Một Góc Cho Bạn Bè”. Nói là cho bạn bè chứ thật ra bài
này đặc biệt anh viết về người bạn  thân “nhất” của anh, người nhạc sĩ
họ Nguyễn tên Tân. Câu chuyện anh kể ở đây có phần tham dự của tôi
ngay từ đầu nên dù đã biết, đọc lại vẫn thấy thật xúc động. Nhớ lại
những năm Anh Chị Tân còn ở VN, mỗi lần về đó công tác tôi tìm cách
liên lạc với Anh. Một lần, anh từ Trảng Bom chạy xe vào thành phố, chỉ
để gặp tôi, đủ thì giờ uống với nhau ly cà phê Trung Nguyên trên đường
Bùi Thị Xuân rồi tiễn tôi lên máy bay về lại Mỹ. Hôm đó, thời gian qua
nhanh quá, đã đến giờ phải ra phi trường mà anh em không muốn rời
nhau. Đó là cái tình đến từ cái tính văn nghệ yêu thương bè bạn của
anh. Có vài lần, cũng qua sự liên kết của anh, chúng tôi tổ chức những
buổi họp mặt văn nghệ với các bạn cũ trong nước thật vui. Mùa hè 2008,
anh chị qua Mỹ đoàn tụ với gia đình con gái, chưa đầy 1 tuần sau, anh
chị đã bay từ Austin qua Philadelphia thăm gia đình tôi và anh chị
Dzũng. Hôm đó, chúng tôi tổ chức tiệc văn nghệ để mừng và giới thiệu
anh chị với bạn bè, luôn thể cho đôi chim vừa sổ lồng được tự do hát
những bài hát anh chị thích mà lâu nay không có dịp. Hôm đó, nhà văn
Trần Hoài Thư vì qúa xúc động khi nghe Anh Tân   líu lo những bài hát
cũ, đã viết 1 đoản văn đầy ý nghĩa đăng trên Thư Quán Bản Thảo số năm
đó. Chuyện Anh Dzũng kể lại về kỷ niệm gặp lại Anh Tân thế nào đã đăng
trong diễn đàn Nhất C nay kể lại cho các bạn cả trường cùng nghe. Câu
chuyện gặp lại đó như bao nhiêu câu chuyện của những người bạn thân
thất lạc nhau trong thời chiến tranh, khi cuộc chiến tàn, họ đi tìm
nhau:
“Tìm anh như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc em tìm biển Nam”
thì không biết tìm đâu. Cũng như tôi, bao nhiêu năm đi tìm bạn cũ
nhưng vô vọng. Nhờ hôm Đại Hội, gặp lại được 4 đứa. Nhưng vì đã lâu
lắm mới gặp nhau nên đứa này nhìn đứa kia, ngờ ngợ, không dám hỏi tên.
Đến khi nhớ ra, ôm nhau nghẹn ngào, mừng mừng, tủi tủi rồi lau vội
giọt nước mắt hiếm hoi. Không ngờ vẫn còn có đứa sống sót như mình vẫn
sống. 4 lớp ban B, sau Tú Tài 1 rớt đi phân nửa. Qua Tú Tài 2, vì cần
có thêm sĩ quan bổ túc cho chiến trường sau muà hè đỏ lửa, thêm hơn 1
nửa phải đi làm nghĩa vụ. Những người bạn kém may mắn này đa số đã hy
sinh trong vòng vài tháng sau khoá huấn luyện vội vàng ở Thủ Đức, số
còn lại sau năm 75 gian nan hơn . Rơi rớt dọc đường đi, bây giờ lang
thang ở hải ngoại, gặp lại nhau chỉ còn 5 đứa. Có đôi lúc tôi thấy
mình quá may mắn qua cuộc bể dâu. Không phải tham chiến, được rời khỏi
nước đúng lúc, được tiếp tục đi học lại ở xứ người, được làm nhiều
điều mình muốn. Còn các bạn tôi, những đứa đã tan xác trên chiến
trường, những đứa lao đao lận đận tuổi thanh xuân,, những đứa bỏ thây
trên biển…tất cả đâu có dịp để gặp lại nhau mà khóc trong niềm vui
đoàn tụ với bạn bè như tôi. Câu chuyện của Anh Tân, Anh Dzũng là câu
chuyện của hai người bạn thân, một thời sống bên nhau, xa nhau rồi lại
gặp nhau….có hậu. Qua lời kể thiết tha của Anh Dzũng, tôi hình dung
được niềm vui tràn ngập của hai người bạn vừa tìm lại được nhau, cách
nửa vòng trái đất, sau bao nhiêu năm xa cách. Tình bạn của hai anh
cũng như với các bạn cùng thời không thể có được ở những thế hệ trẻ
khác. Có lẽ, thời đó sống trong chiến tranh, nỗi lo sợ mất nhau qúa
lớn nên họ gắn bó nhau nhiều hơn. Còn thấy nhau hôm nay, mất nhau ngày
mai là chuyện thường tình. Mỗi lần nghe tin có người bạn đi lính là
tôi nhớ hai câu thơ : “Anh đi như thể là thiên thu rồi” của GHT. Anh
Dzũng cũng bị đôn quân,  nhưng Thượng Đế thương Anh để anh trở về lành
lặn, rồi một ngày anh tìm lại bạn cũ, gây cho anh Tân sự bất ngờ: “Mầy
mà mỹ miết gì, Mỹ Tho thì có” khi Anh Dzũng bảo là Anh đang ở Mỹ. May
mắn cũng đã đến với một số người. Chúng ta là một trong số những người
may mắn đó.
Khác với hoàn cảnh chúng ta, Chị Tuyết Đào ở quê nhà, dù cuộc sống
có khó khăn, mất mát nhiều, nhưng tôi tìm thấy trong bài thơ “Yêu Nhau
Trọn Đời” của Chị đăng ở trang 226 có nhiều hình ảnh đẹp, không bi
quan, Chị phấn đấu để chiến thắng cuộc đời nghiệt ngã :
“… Có những lúc anh lao đao tưởng chừng gục ngã
thì chính em vực dậy để đi lên
qua rồi, những ngày lận đận
qua rồi những ngày tháng gian nan…”
Mới năm nào đây nghe tin chồng Chị mất, tôi gởi thư chia buồn. Chị
trả lời trong cơn xúc động nghẹn ngào. Tôi với Chị chưa biết mặt nhau,
nhưng trong sâu thẳm, hình như tôi đã hình dung ra Chị. Một người đàn
bà mạnh mẽ, kiên cường, đứng lên từ mất mát, đỗ vỡ, làm lại để rồi
cùng với thời gian tự vá lấy tang lòng. Bài thơ tràn đầy hạnh phúc này
không biết Chị viết từ bao giờ? Nếu là gần đây thì cũng xin mượn mấy
giòng chữ này để chúc mừng trái tim Chị nay đã trở lại bình yên, và
Chị đã “bắt đầu xây tương lai, bằng bước chân hiện tại”.
Qua trang 222, tôi đọc được bài thơ “Xuân Phai” của Chị Lĩnh Cơ.
Bài thơ 7 chữ, 4 câu này mạnh mẽ, đầy nam tính, viết như lời tâm tình,
như câu chuyện kể. Chị kể chuyện mất mát“ Bạn cũ vài ba thằng nằm
xuống” , Chị kể chuyện đau thương “Xa nhau như đàn chim rời tổ”, rồi
Chị kể về kỷ niệm “Ngồi đây, vỡ tiếng cười tuổi trẻ”. Chị không về dự
Đại Hội, nhưng từ bên trời Âu, Chị gởi tặng bạn bè những hình ảnh :
“ Ta về trên chuyến đò qua muộn,
Giữa buổi hoàng hôn của cuộc đời
Bỗng dưng trên mái đời hiu quạnh
Nắng vàng đậu xuống một niềm vui”
Bỗng dưng, tình cờ, hay ngẫu nhiên mà nắng vàng ở Houston hôm đó chói
chang, nhưng nắng có đậu xuống mái đời ai một niềm vui như lời thơ chị
Lĩnh Cơ gởi thì tùy tâm trạng của mỗi chúng ta. Riêng tôi hôm đó đâu
đâu cũng nghe tiếng cười rộn rã của qúi Anh Chị về dự Đại Hội mà vui
lây. Hình như tất cả đã quên mất là tuổi mình đã lớn, đời mình cũng
đang ở những ngày mùa Thu, những cứ tưởng như đang ở cái tuổi mười mấy
của năm nào đầy ắp những ước mơ với thế giới học trò ngập tràn hy
vọng. Ta về, trong thơ của Chị Lĩnh Cơ không lẫn thẩn như ý thơ Tô
Thùy Yên “như lá rơi về cội”, nhưng có hình ảnh lạnh lùng, ngạo nghễ,
bất cần đầy lãng mạng trong đau thương, tủi nhục của Cao Tần ở những
năm cuối 70, thời mới vừa xa tổ quốc.
Trang 311 có truyện ngắn “ Cặp Đôi” của chị Thùy Hạnh, hiền thê của
anh luật sư Nguyễn Lệnh. Giữa anh chị và anh em tôi có nhiều kỷ niệm
đáng nhớ. Anh Bằng của tôi (qua đời năm 2010) kể lại là những năm học
CĐ, Anh Lệnh yêu Chị Hạnh mà không dám nói. Anh Lệnh viết thư tình
trên giấy màu hồng rồi nhờ Anh tôi làm chim xanh. Sau này anh chị nên
duyên, có dịp  anh chị Lệnh thường nhắc đến kỷ niệm đáng yêu này. Phần
tôi, không được biết anh chị những năm đó, nhưng đến năm 2002, qua Anh
Tân, tôi làm quen và thân nhau từ đó. Chị Thùy Hạnh có em gái là Chị
Thu Hiền, học CTKD Đà Lạt cùng lớp với Chị Ngọc Phụng (vợ Ngu Yên),
Chị Thu Yến (vợ Xuân Diệu) và Chị Xuân Mai (em gái Anh Trịnh Xuân
Thọ). Mấy chị là những bông hoa đẹp, hát rất hay, của nhóm sinh viên
Bình Định tại Viên Đại Học Đà Lạt Chị Thu Hiền rất đặc biệt, “tom
boy”, cởi mở, vui vẻ, tự nhiên và chơi với bọn con trai chúng tôi như
bè bạn. Hiền thường ghé lại chỗ trọ chúng tôi chơi. Rảnh thì chị hay
tập bọn con trai chúng tôi nhảy đầm, tập hát, khi hát phải phát âm cho
đúng và giữ nhịp. Trên lầu 2 của căn nhà trọ đường Tăng Văn Danh thời
đó luôn có bóng dáng một người nữ rất dễ thương, dễ gần và chơi thân
vơí đám con trai qủi quái, tinh nghịch.
Trong mấy số Đặc San trước tôi có đọc truyện ngắn của Thùy Hạnh,
nhưng không biết tác giả là người Chị mà tôi rất kính mến. Chị có lối
viết truyện ngắn rất lạ, văn phong trong sáng, thật, và cách dẫn
chuyện rất khác những cây viết khác. Truyện của chị viết về những câu
chuyện rất đỗi tầm thường, của đời thường , chuyện không nên chuyện,
thế mà người đọc vẫn thấy cuốn hút. Cái tài tả chân, tả cảnh đến tỉ mỉ
một cách lạ thường, làm người đọc say sưa, đọc không ngừng và rất sợ
đến trang cuối. Có cái gì đó rất gần với nhà văn Võ Phiến trong lối tả
chân của chị. Mà thật vậy, chị bắt đầu câu chuyện không từ đâu, và
chấm dứt cũng không ở chỗ nào. Nó cứ loay hoay, rối rắm, lúc mở ra,
lúc đóng lại, lúc như thông, lúc lại bế tắc…Nó tù mù như những mảng
đời mà chúng ta đã từng thấy tận mắt, sống gần. Đọc truyện của Chị, ta
như xem lại những cuốn phim đời của giới lao động, trong những con hẻm
nhỏ, sống lúc nhúc, kèn cựa, lục xục….nhưng vui. Chị sử dụng những từ
rất địa phương như trõ (trò ấy), ảnh (anh ấy), cổ (cô ấy)…làm người
đọc thấy đặc sệt tính rất “nẫu” trong mẫu chuyện này. Bắt đầu là
chuyện cặp đôi của cô Nếp và anh Sửu, rồi không đi đến đâu, bỗng đến
cuối thì có chuyện cô Lệ Nghi tuyên bố  bỏ học đi lấy chồng. Thùy Hạnh
dẫn chúng ta đi thật xa rồi bỏ lửng. Chủ ý của Chị là muốn kéo chúng
ta về lại cái tuổi thanh xuân, để nghe cô Nếp mếu máo: “chị bỏ đi như
vây là chơi ăn gian” …vì “làm người lớn có gì hay ho mà ham”. Hơn 40
năm sau, bây giờ chúng ta đã “lớn” thật rồi. Có thấy gì vui không mà
thời đó ham lớn cho nhanh!
Mở đến trang 294, truyện ngắn “Làm Cô Giáo” của Kim Tiến hiện ra.
Truyện này làm tôi đọc đi, rồi đọc lại vì có điều gì trong đó giống
mình. Nhớ lại những năm học ở Đà Lạt tôi học Sư Phạm, và mơ mai kia
làm nghề thầy giáo. Đầu niên khoá 74-75, tôi được qua dạy thực tập
trường Nữ Bùi Thị Xuân, môn Hóa Học, lớp 11 ban A. Nhớ lại hôm đầu
tiên lên bục giảng, từ trên nhìn xuống, hồn phách tôi bay lên mây bởi
chạm phải hơn 50 đôi mắt đen láy, tinh nghịch, tò mò nhìn lên. Những
đôi mắt đẹp, tinh ranh của lũ học trò con gái mới lớn nhìn chăm chăm
làm người “thầy” trẻ quên hết mình phải dạy điều gì. Tôi run run, đứng
không vững, trên bục cao thấy mình như đang bị trời trồng. Để lấy bình
tĩnh, tôi dở trò, đọc liền hai câu thơ nói về tính âm(-) dương(+),
luật cân bằng và sức hấp dẫn nhau trong tính hoá trị:
“Có âm dương, có vợ chồng
Dẫu trong nguyên tử cũng vòng phu thê”
Đám học trò đang ồn ào, bỗng im lặng lắng nghe rồi cười rộ lên, thích
thú, la hét… yêu cầu thầy đọc tiếp thơ. Tôi ra điều kiện rằng các em
phải ngoan, nghe bài giảng, đến cuối giờ sẽ đọc thêm thơ cho nghe.
Những đôi mắt sáng, long lanh, trở nên ngoan, hiền như nai tơ, bớt đi
nét tinh nghịch, phá phách, cúi xuống chăm chú chép bài. Cuối giờ, tôi
đọc tặng các em bài thơ của Anh Phạm Cao Hoàng, trong đó có câu:
“Ngựa có khi cũng mỏi vó giang hồ
Anh có lúc cũng thèm đứng lại”
Và bải giảng hôm đó cũng “đứng lại” ngay ở đó.
Trong bao năm qua, có lúc tôi cũng “thèm đứng lại” để nhìn quãng
đời mình đã đi qua, sót lại ký ức, lục lại kỷ niệm cũ để tìm lại những
đôi mắt ngây thơ trong sáng tinh nghịch của đám nữ sinh vô tư ngày nào
trên xứ mù sương. Ôi! những “đôi mắt ấy làm sao tôi quên được”. Không
may mắn như Kim Tiến, tôi chưa có dịp đứng trên bục giảng để làm quen
với tuổi thơ, để nhớ lại lời một cô học trò đã viết trong thư “thầy
đọc thơ hay hơn là giảng bài hóa học”. Ở Mỹ, những lần đi dự đại hội
kỹ thuật và có dịp thuyết trình trước đám đông cử tọa là những người
trong ngành, tôi thấy mình hoạt bát, bình tĩnh, không sợ. Nghĩ lại,
không phải khi xưa mình không có khiếu ăn nói trước đám đông, nhưng có
lẽ những đôi mắt ngây thơ, tinh quái… ấy đã hớp hết hồn mình.
Trên xứ người cô em Kim Tiến may mắn được dạy các bé đánh vần, dạy
từng câu ca dao, tục ngữ, từng lời hay, ý đẹp trong ngôn ngữ Việt. Văn
hóa Việt còn mất, kéo dài được bao lâu trên đất nước người là nhờ
những người có công lao như cô giáo Kim Tiến. Ráng lên cô giáo nhé!
Đang viết bài này gần đến đoạn kết, Anh Ngọc Tân gọi điện thoại
báo hung tin Thầy Nguyễn Mộng Giác vừa qua đời hôm qua ở Cali (2 tháng
7). Cũng mới sáng hôm qua, Kim Tiến gởi điện thư cho Anh Tân đã nói
chắc Thầy cũng sắp đi xa rồi. Tiến viết: “ Lẽ vô thường của đất trời,
nghe hoài, học hoài mà cũng có thuộc bài đâu! Nghe cũng xốn xang lắm
anh Tân ạ.”
Ôi! người thầy đáng kính của em cũng như của bao thế hệ học sinh
Cường Để. Bao nhiêu học trò cũ của Thầy nay biết viết văn, biết làm
thơ, biết  thích văn học Việt cũng do thầy dạy cho. Năm 65, em học lớp
Đệ Thất, Thầy về phụ trách môn Việt Văn. Nhờ lối giảng bài lôi cuốn,
phân tích hay, em yêu thích môn Văn hơn bất cứ môn nào. Em đã đọc bao
nhiêu lần truyện dài Mùa Biển Động và trường thiên dã sử Sông Côn Mùa
Lũ của Thầy, mỗi lần đọc lại thấy thêm cái hay.
Năm 85, liên lạc được với Thầy, em đã chép tặng Thầy bài thơ “Bông
Cỏ May” có mấy câu:
…”Ngọn cỏ ốm là dáng gầy của Mẹ
Đám cỏ khô là mái tóc của Cha
Em muốn hiện thân làm bông cỏ dại
Bám gấu quần về thăm mái nhà xưa…”
Nay Thầy không cần phải làm bông cỏ dại để bám gấu quần về thăm
mái nhà xưa mà hương hồn Thầy đã về lại bên kia, với quê hương, với tổ
tiên. Vĩnh biệt Thầy.

Horsham, 3 Tháng 7, 2012{jcomments on}

 

0 thoughts on “Kỷ Niệm Khó Quên

  1. Kiều Thanh

    Nay Thầy không cần phải làm bông cỏ dại để bám gấu quần về thăm
    mái nhà xưa mà hương hồn Thầy đã về lại bên kia, với quê hương, với tổ tiên. Vĩnh biệt Thầy.
    Đúng là kỉ niệm khó quên .Vĩnh biệt Thầy .

    Reply
  2. Bích Vân

    …”Ngọn cỏ ốm là dáng gầy của Mẹ
    Đám cỏ khô là mái tóc của Cha
    Em muốn hiện thân làm bông cỏ dại
    Bám gấu quần về thăm mái nhà xưa…”
    Thơ Nguyên Lương tặng thầy hay quá .

    Reply
  3. Lê công Dzũng

    Cám ơn Nguyên Lương về bài viết thật hay và sâu sắc cũng như những tình cảm đậm đà dmà anh đã dành cho nhóm Nhất C, Hương Xưa và thân hữu. Anh đã viết bằng những cảm xúc chân thành làm cho người đọc cảm nhận được những tình bạn cao đẹp và bền lâu, không bị thời gian làm phôi phai!
    Bằng một văn phong tự nhiên, nhẹ nhàng và duyên dáng, bài viết đã cuốn hút người đọc đến những giòng cuối cùng mà vẫn còn như ngẩn ngơ, tiếc nuối!
    Xin cám ơn anh, cám ơn một tình bạn chân thành và cao đẹp, vượt qua bao thử thách vẫn óng mượt như những sơi tơ trời, sáng ngời mãi với thời gian!
    Lê nguyên Lê

    Reply
  4. Dạ Lan

    Bài viết anh Nguyên Lương ấm nghĩa thầy trò , ngọt ngào tình bạn , cám ơn anh.

    Reply
  5. Tha Hương

    Viết hay lắm . Mấy ngày nầy bàng hoàng vì tin nhà văn Nguyễn Mộng Giác từ trần nay đọc bốn câu thơ mới thấy cuộc đời mỏng manh hơn Bông Cỏ May. Xin thắp nén hương tưởng nhớ một người tài hoa.

    Reply
  6. rongriu

    Ông chỉ nhớ chỉ thương chỉ yêu quê hương, đất nước thâu; chứ chưa chắc như tác giả viết đâu…!

    “Nay Thầy không cần phải làm bông cỏ dại để bám gấu quần về thăm
    mái nhà xưa mà hương hồn Thầy đã về lại bên kia, với quê hương, với tổ tiên. Vĩnh biệt Thầy.”

    Cảm ơn cho bài viết thương tiếc thầy rất thiết tha của tác giả! Bye.

    Reply
  7. Tuấn Phong

    Lâu ngày vào Hương Xưa đọc một bài viết cảm động .Tình thầy, nghĩa bạn thật bao la.

    Reply
  8. Thu Thủy

    Bài viết của anh Nguyên Lương rất hay và cảm động. Cả hai lãnh vực văn và thơ đều là sở trường của anh.
    Cám ơn anh đã cho tụi em biết thêm về tình bạn đẹp đẽ của các anh chị.
    Cám ơn bài viết Vĩnh biệt Thầy Nguyễn Mộng Giác đầy tình nghĩa thầy trò :
    ”Ngọn cỏ ốm là dáng gầy của Mẹ
    Đám cỏ khô là mái tóc của Cha
    Em muốn hiện thân làm bông cỏ dại
    Bám gấu quần về thăm mái nhà xưa…”

    Reply
  9. Quốc Tuyên

    Cám ơn Nguyên Lương một tác giả tài sắc vẹn toàn.Thấy hình đôi giai nhân tài tử rồi.

    Reply
  10. lamcamai.

    Bài viết rất lôi cuốn cảm động , sự chân thật cứ dàn trải theo nỗi lòng tình bè bạn nghĩa thầy trò đưa người đọc quay về thời học sinh hoa mộng để ngày nay còn gắn bó rất trân quý, và bây giờ ngậm ngùi tiếc nuối chia xa người thầy kính mến
    Cám ơn anh Nguyên Lương

    Reply
  11. Tuệ Minh

    Bài viết cô đọng, hình như trong tác giả đã sẳn một tâm hồn giàu cảm xúc nên chỉ vừa nghe tin thầy giáo mất là từ đó kỉ niệm tràn về để làm một kết thúc hay và văn bút .

    Reply
  12. HN Tin

    Bài viết chan chứa nghĩa tình!Hay lắm, cảm động lắm những kỷ niệm bạn bè, tình Thầy trò mãi mãi không bao giờ phai nhạt.Cảm ơn anh!

    Reply
  13. nguyentiet

    Bài viết hay quá, rất lôi cuốn,thấm đẫm tình bạn, tình thầy trò.Anh viết mà như đang nói với trái tim mình , cảm động lắm.

    Reply
  14. Kim Bồng

    Bài viết tự sự của anh NGUYÊN LƯƠNG như Một tấm chân tình đươc trang trải thật tha thiết, chỉ có thể có từ những cựu học sinh Cường Để tài hoa năm xưa!
    KB đã học VĂN với thầy NMG 2 năm , nay nghe tin thầy ra đi mà nghẹn ngào không biết nói được điều gì .
    Từ lâu KB mỗi khi cầm bút đều nhớ đến lời thầy dạy “phải viết thế nào cho đúng cho hay?!”– NHỜ ĐÓ KB DẦN DẦN VIẾT VĂN KHÔNG CÒN SAI PHẠM cũng vì thế nên KB không bao giờ quên ơn thầy được .

    Reply
  15. Tôn Nữ Yên Khê

    Anh Nguyên Lương viết rất hay tình cảm bạn bè và thầy trò thăng hoa trong trái tim anh .

    Reply
  16. Kim Bồng

    KB xin đính chính lại tên ở hình 1 trên.
    —–> lý thị THƠ–>Vương thị TẤN–>HƯƠNG–>THẦY–>HỒNG–>Kim BỒNG–>Ng thị Tố ANH

    Reply
  17. HOANGKIMCHI

    Bài viết hay & cảm động về tình nghĩa thầy trò thật đầy ắp chân tình.

    Reply
  18. Nguyên Lương

    Anh Dzũng và các bạn

    Đã vào được Hương Xưa, đọc lại bài mình viết và những phản hồi rất nhiệt tình, dễ thương của các bạn. Chị Tuyết Đào không sửa lỗi “chính trị” của bài viết bao nhiêu. Vừa vui vì bè bạn mới gặp, chưa bao lâu thì buồn vì người Thầy kính mến của bọn mình đã ra đi. Nhưng dù là gì, khi bắt đầu viết bài này, mình đã nhắc đến thầy, hình như là một linh tính chẳng lành. Quả thật ngày hôm sau nhận hung tin. Đây cũng là dịp để chúng ta ôn lại nhiều kỷ niệm. Có lẽ Thầy đã chờ cho bọn mình xong lần họp mặt rồi ra đi thanh thản. Tưởng tượng nếu Thầy đi sớm hơn thì tiệc đoàn tụ hôm đó đã trở thành … tiệc buồn
    Cảm ơn Chị Kim Huê, Anh Ngọc Tân, và anh Dzũng đã lo chu đáo việc Phân Ưu. Tốn kém bao nhiêu nhớ cho mình biết để chia xẻ.
    Mình ráng cố gắng tìm lại bài thơ Bông Cỏ May, đã viết tặng Thầy Giác năm 83, để gởi lên Hương Xưa chia xẻ với bạn bè.
    Trong bài thơ mình còn nhớ có mấy câu đã làm “ám ảnh” Thầy Giác năm đó:

    “Mùi sữa chua, mùi mồ hôi chảy vã
    Mùi bùn đen trên da khét nắng trời
    Mùi dầu dừa ngày xưa Mẹ xức tóc
    Con nghe nồng hương ấm lạnh Cha ơi!”

    Chờ nhé
    Lương

    Reply
  19. NGỌC TÂN

    Nguyên Lương thân mến,
    Đọc bài viết KỶ NIỆM KHÓ QUÊN của bạn mình rất vui và cảm động. Bạn bè chí tình đến thế là cùng! Tâm tình hai ta không cần phải nói ra Lương nhỉ? Nội cái việc mới đây bạn và gia đình vượt ngàn dặm để “thăm anh chị Tân một lần” là tụi mình hạnh phúc lắm rồi. Còn vợ chồng mình cũng đang mơ về chuyến dự kỷ niệm 10 năm Lương- Các thành hôn tổ chức vào năm tới đây. Gặp nhau vui vầy như vậy mà sao không cố gắng?!
    Bạn biết đó, cả đời mình chẳng làm thơ, chỉ yêu thơ và phổ thơ thành nhạc. Thơ Nguyên Lương mình phổ đầu tiên, sau đó Lê Công Dzũng và lần lượt các thân hữu khác…Nghe lại những bài nhạc mình phổ thơ, bỗng dưng trong đầu mình xuất hiện 4 câu sau đây không biết có được gọi là thơ không nữa:
    Từng lời thơ ẩn mình sau nốt nhạc,
    Cho thanh âm dào dạt khắp muôn nơi.
    Cho ý thơ vang vọng mãi một đời,
    Theo cung bậc tiếp nối lời tình tự…

    CD ” Rồi Ngày Sẽ Qua” của chúng ta cũng đã đúng sinh nhật thứ 10. Nghe đi nghe lại vẫn chan chứa tình bạn. Mình bỏ nó vào trong xe lái đi hằng ngày và từng khuôn mặt bạn hiền luôn theo mình trên mỗi chặng đường. Có nhiều lúc lệ nhòa vì hạnh phúc…
    Lương ơi, rồi ngày sẽ qua nhưng mỗi ngày qua tình ta vẫn tiếp nối lời tình tự.
    Nguyễn

    Reply

Leave a Reply

Your email address will not be published.