Từ trước tới nay, nói về “thơ tình” hay “mùa xuân” người ta chỉ nhắc tới Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh … chứ mấy ai biết đến tình và xuân trong thơ linh Lân của Bàn Thành tứ hữu ở xứ võ Bình Định.
Có ai biết bao nhiêu suối tình và xuân trong thơ Yến Lan đã âm thầm sâu lắng chảy không ngừng nghĩ, bền bỉ, dạt dào cho tình yêu quê hương, mùa xuân của nhân loại. Dẫu nhà thơ đã đi rất xa, song những vần thơ lưu của ông về mùa xuân và tình yêu vẫn còn đó trong âm thầm và lặng lẽ!!!
Mùa xuân này, mùa xuân của năm 2014, mời các bạn yêu thơ thử đến với tình và xuân của Yến Lan; để nhà thơ dắt ta đi qua cuộc hành trình nhân thế với những nét tế vi của cuộc sống đời thường, và để rung động trước vẻ đẹp của non sông đất nước thấm đẫm tình người ở trên thế gian này.
Đề tài về tình yêu văn học nhân loại “nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển” Đặc biệt là thơ mới 1930-1945 luôn choáng ngợp trong mọi cung bậc của tình yêu. Thơ Yến Lan không nằm ngoài qui luật đó. Nhưng thơ tình Yến Lan với cái riêng trong phong cách đã cho ra đời nhiều bài thơ tuyệt tác.” Đóng góp của ông trong mảng đề tài này là cái chất riêng khó gặp ở phong cách thơ khác cùng thời. Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” từng đánh giá thơ Yến Lan: “có cái không khí là lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích…”
Sắc màu mùa xuân và tình yêu của Yến Lan như những con suối nhỏ âm ỉ chảy mãi cả một đời thơ:
Mây mãi sa đà đình núi cao
Chim say tổ ấm chẳng rời nhau
Nếu không ngọn suối ra sông lớn
Một chút tình quê biết gửi đâu”
Ơn suối
Thật vậy, nếu tình yêu trong thơ Xuân Diệu được nhận định “Vừa có cái cao khiết của tâm hồn vừa có cái cường tráng lành mạnh của nhục thể” thì tình yêu trong thơ Yến Lan rất chân thật trong cảm xúc, nó vừa miên man, lung linh, lấp lánh, hư mà thật, thật mà hư… nhưng cũng thắm thiết nồng nàn. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nói: “Thơ phải nhìn rõ trong bóng tối”, thì nhà thơ Yến Lan là người đã có con mắt kỳ ảo thấy được bóng tối đó, nó là vô thức, bởi được bao phủ lớp sương khói bàng bạc, huyền diệu, thơ mộng. Cảnh vật, con người trong thơ ông hết sức bình thường nhưng nhờ phủ lên không gian thơ một lớp sương khói bàng bạc của thời gian: Vàng
Ai về xóm Cửi năm năm trườc
Đều thấy em ngồi dệt đoạn tơ
Quanh em vàng tựa trời gieo xuống
Vàng ở trong màu xuân lắm thơ
Hình ảnh đẹp của cô thôn nữ đang ngồi quay tơ, dệt vải bình thường nhưng hình ảnh bình thường ấy của cuộc sống được nhà thơ vẻ đậm nét huyền diệu. Người đọc được chìm trong không gian vàng huyền hoặc, nhẹ nhàng và thơ mộng
Không biết tự bao giờ, nỗi buồn đã đi vào thơ ca, trải dằng dặc theo cuộc sống nhân loại. Với Nguyễn Du đó là nỗi đau của đời (trong “Kiều”)
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Còn nữ sĩ Xuân Hương là nỗi buồn, ngán ngẫm cho duyên phận không trọn vẹn như mong ước (Tự tình)
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẽ tí con con
Xuân Diệu thì ngẫn ngơ buồn vì cô đơn bơ vơ chính ngay trên quê hương mình: Hôm nay trời nhẹ lên cao/Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Riêng Hàn Mặc Tử thì tái tê: (Muôn năm sầu thảm)
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan
Với tính cách hiền hòa, kín đáo và tế nhị, thơ tình Yến Lan không thể hiện sự đòi hỏi mãnh liệt của nhục dục. Cả với nỗi buồn phải chờ đợi mỏi mòn ông cũng trải nó ra man mát: (Cam chịu)
Lầm lũi em đi chẳng nói năng
Vắng em anh cũng thắt buồng gan
Gần nhau hay phải xa nhau mãi
Mặt biển tình ta dải thẳng băng
Tình yêu trong thơ ông dù dang dở, song không phải như Hồ Dzếch “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở / Đời mất vui khi đã vẹn câu thề”, mà bởi cái triết lý rất nhẹ nhàng, thâm thúy về qui luật cuộc đời mà ông lý giải : “Nợ”
Nhà không vườn, không gác, không sân
Tôi nợ đời rau trái tôi ăn
Nợ hàng xóm trưa hè bóng mát
Nợ em cài bên cửa một vầng trăng
Cái triết lý về thời điểm hạnh phúc cứ theo mãi kiếp người, dằn vặt, trăn trở. Cảm nhận về tình yêu của ông thì nhẹ nhàng, trong sáng nhưng lại khắc khoải khôn nguôi : (Mùa xuân này lạnh lắm em ơi)
Em đi, ngày tháng biệt mùi tăm
Kén đã luân sinh mấy kiếp tằm
Một mảnh hồn ta còn đọng mãi
Trên vành nong úa sắc thời gian
Quê hương trong mỗi con người là sự mặc định của số phận. Người ta có thể có nhiều vợ, nhiều chồng nhưng quê thỉ mỗi người chỉ có một như là chỉ có một cha, mẹ đẻ ra mình mà thôi. Chính vì triết lý rất đời ấy, tình quê của Yến Lan không bao giờ đổi thay, không bao giờ chối bỏ; dù trong hoàn cảnh nào ông cũng đặt quê hương lên trên hết:
Nhưng quê hương…? Cháu biết chữa? Quê hương
Có những mối giây quấn quýt, buộc ràng;
Gút chặt trong ta những thầm kín nhất.
Cho đến cả những vật xưa đã mất
Cứ còn tuyền trong hơi ấm tim gan!
(Quanh một chồi cây đổ)
Còn trong bối cảnh sống cuộc đời nô lệ, bị áp bức thì thơ ông thể hiện trạng thái “đau, ngơ ngẩn, sầu muộn, quặn mình, nức nở” tái tê trong “Bình Định năm 1935”-
Nhánh tòng bá có đau vì xứ sở
Chớ quặn mình thêm nức nở hồn tôi
Không được sống xin cho cùng được thở
Vạn lý tình trong gió ngọt xa xôi
Cuộc sống vốn dĩ cơ cực, khó khăn, nhưng tình yêu thi sĩ trong nhà thơ thật trong trẻo, thanh cao dễ vỡ như pha lê, nhưng lại thuần khiết, nhẹ nhàng:
Tuổi trẻ băng đồng đi hái hoa
Tặng em ngấp nghé chực quanh nhà
Người không ra đón, hoa dần héo
Héo cả làn mây đỉnh núi xa
Không trách ai đâu, chỉ trách mình
Dáng nghèo lam lũ áo thư sinh..
Bó hoa đơn giản hương đồng nội
Lầu gác ai đâu dễ động tình…
Trong thời phong kiến, tình yêu thường bị ngăn trở bởi sự giàu nghèo, sang hèn, vì phụ thuộc hệ lụy vật chất nên khiến những người yêu nhau đau khổ bẽ bàng. Bằng giọng điệu nhẹ nhàng, sâu sắc nhà thơ đã chỉ ra nỗi xót xa của định kiến trong tình yêu :
Thói thường đăng đối cuộc nhân duyên
Cha mẹ em giàu dễ để yên
Cho một lứa đôi không xứng vế
Dẫu tình yêu đôi lứa trong thơ ông có vẻ âm thầm, không dữ dội, cuồng nhiệt nhưng lại đằm thắm, da diếc vô cùng! (Đồng nội hồn tôi)
Vì với tình tôi phải nhẹ nhàng
Phải là ý ngọc, phải tim vàng
Phải là trọn vẹn, là trong sáng
Là một bài thơ khắc chữ nàng
Còn thứ tình nào mảnh liệt hơn thế khi dòng trường giang không còn cuộn sóng và lòng người trở thành một bến đò của dĩ vãng, của ngàn năm đợi:
Em đi bờ bãi cũng theo đi
Sóng lặng trường giang trải phẳng lì
Từ ấy lòng anh làm cố độ
Câu thơ chờ đợi hóa chòm si
Cố độ
Viết về tình yêu, Yến Lan thường mượn hình ảnh ẩn dụ “Thuyền và bến”. Đó là hình ảnh trở đi trở lại như một bài ca dao, song thơ ông vẫn rất mới; mới ở thể thơ, ở cảm hứng thơ. Không hoảng loạn như Hàn Mặc Tử, không đắm say, cuồng nhiệt như Xuân Diệu, không kỳ bí như Chế Lan Viên; ông cứ nhẹ nhàng, từ tốn, giản dị như chính cuộc sống của ông. Song, cuộc sống vẫn luôn vận động, biến chuyển với cái triết lý riêng của nó và được liên đới với bao kiếp người: (Những giọt bông hường)
Ta đang sống vì có người đã chết
Hồn kết tinh bằng bao nhớ thương xưa
Đời lớn nhanh và mạnh như bẹ dừa
Tôi là cả tinh hoa muôn thế kỷ
Sống phút sống của hàng ngàn thi sĩ
Mơ giờ mơ của bao cửa không gian
Mơ hồn xuân như đã mở thiên đàng
Tôi sống khỏe và hoa hồn độ nở
Bao đời nay, thi sĩ yêu trăng trong thế bị động, vầng trăng là đối tượng để yêu để được say đắm thở than. Không hiểu sao, chỉ riêng Bình Định quê tôi, vầng trăng lại phát ra thứ ánh sáng diệu kỳ, lạ lẫm đến thế, khiến thi sĩ sinh ra trên dải đất này đều bị ám ảnh. Thứ ánh sáng kỳ ảo đó, với Hàn, trăng ở xa đến vậy mà ông đã sở hữu được, để rồi: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho ?” Và trong cơn say Ông đã trở thành ma cà rồng say máu: Say trăng
Gió rít tầng cao trăng ngã ngữa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Ánh trăng trong thơ Xuân Diệu, thường gợi một không gian rộng đến choáng ngợp như một sự đối lập với nỗi cô đơn, nhỏ bé của con người:
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
………
Trăng sáng , trăng xa, trăng rộng quá
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ
Chỉ có Yến Lan mới rơi vào trường hợp hãn hữu thế này:
Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau trở dạ không giường chíếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng.
Bởi vậy, ông được ánh trăng vây phủ, bao bọc, nâng niu vỗ về khi vừa lọt lòng mẹ ra, trên bãi cát vàng. Từ đó ánh trăng là duyên nợ, là tình yêu của cội nguồn. Nên, với Yến Lan trăng là chủ động, ấp ủ, nó là chất vi lượng bồi bổ cho tinh thần của ông:
Trăng đi từ tóc đi vào máu
Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân
Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá
Như má yêu môi, đến đến gần
Cho nên có hệ lụy là: (trích Bệnh trăng)
Từ thuở lên hai đã yêu trăng
Đã bồng đã ấp, đã nâng niu
Ban ngày tôi ngủ trong lòng mẹ
Lại ngủ trong trăng lúc tắt chiều.
Ngay từ thuở mười ba, mười bốn tuổi, Yến Lan đã nhẹ nhàng, đỉnh đạt bước vào làng thơ cùng “Bến My Lăng” với hình ảnh ông lái đò u buồn, đợi khách trên bến sông đầy trăng huyền ảo; ánh trăng chạy dọc theo thời gian và chiếu sáng lung linh như một nhân chứng lạnh lùng chờ đợi khắc khoải suốt bao năm, mãi đây vẫn còn ám ảnh lòng khách thơ.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi
Tình yêu đôi lứa chưa ai đong, đo, đếm, tả hết được, cho dù có hàng vạn chiếc máy tính siêu hiện đại. Thời gian khiến mọi thứ trở nên bất lực nhưng tình yêu trong thơ Yến Lan thì không, nó trở thành vĩnh cữu……..
Dồn lên thành thạch nhũ
Lớp phấn -đá – tình – em
Cuồn cuộn như bão tố
Cơn gió lộng hồn anh
Thời gian vút mủi tên
Em kể gì năm tháng
Tảng thạch nhũ tan ra
Bên gối người sấp mặt
Cơn bảo cũng chan hòa
Con suối tình dào dạt
Tình yêu trong thơ Yên Lan, giản dị, mộc mạc như chính đời ông. Đối với ông, những ưu tư, phiền muộn ở đời mang đến cho ông những thiệt thòi để rồi ông không được hưởng như bạn cùng thời, song không vì thế mà ông lao tâm tổn sức bất mản đi đến suy sụp tinh thần. Trái tim nhân ái của ông biết chọn lọc, tìm ra những nét đẹp, những tình đời đáng trân trọng để sống thanh thản bình yên trên dải dất quê nghèo-nơi nuôi dưỡng và nắm giữ hồn quê và hồn thơ của ông.
Vành trăng này từng dắt trẻ dung dăng
Đón quà tết trung thu Bác tặng
Từng hăm hở trên nẻo đường ra trận
Lưỡi dao vàng xẻ dọc Trường Sơn
Cha tặng con, con bận rộn mùa màng
Đồng lúa hạn nước chợt về giữa giấc
Đường chạn vạn xe phân lăn tất bậc
Gà lên chuồng, thóc rạ vẫn vương rơi
Một vành trăng lai láng nguồn vui
Trộn với mồ hôi cần cù con đổ
Loáng qua hết những nhọc nhằn gian khổ
Và cứ vậy, mỗi độ én về chao liệng trên vùng quê; Tết cổ truyền đến, bất chợt nhớ lại tuổi thơ của mình, nhà thơ trở nên tươi trẻ lại
Ta đến hàng đồ chơi
Ngựa gỗ chen gà đất
Xem nghệ nhân vẽ vời
Có đậm màu dân tộc
Ta đến hàng sứ, sành
Chọn bình hoa chậu kiểng
Vui còn chú môn sinh
Đem biếu chùm lan biển
Sắc xuân, hương vị Tết luôn tràn ngập trong thơ ông cho dù xuân nhà ông đến muộn hơn mọi nhà :
Vụng sắm cành đào không kịp tết
Ra giêng chợt hé một vài bông
Xuân người lả tả bay đi hết
Ngoảnh lại xuân ta mới chớm hồng .
Xuân muộn
Ngoài sắc màu xuân, tình đời, tình người nhà thơ không ước mơ gì lớn lao, ông chỉ chọn cho mình cái quí hơn – đó là tình người :
Mơ một mùa xuân đẹp
Tình đời rộng bao la
Chớ vin nhà chật hẹp
Cổng khép người lại qua
Thơ tình của Yến Lan nó mạnh mẽ như thế, nhưng cũng thắm thiết, nồng nàn và cả lãng mạn nữa! Thế mà ít ai biết đến! Một chút tình con đối với cha, xin gửi đến bạn đọc nhân năm cũ hết, tết mới đang đến gần./{jcomments on}.