Năm 1951, khi gia đình chúng tôi có nhà mới ở xóm Kẻ Trài ( hay còn gọi là xóm Măng Cá ), anh Đê và chị Tề được 2 nhà tổ chức hôn lễ. Lễ cưới được diễn ra tuy không có “cau lồng, rượu ché, heo đóng cụi” nhưng đầy đủ lễ nghi với lồng đèn, lọng đỏ và rước dâu bằng xe xích lô ( lúc bấy giờ chỉ có các bậc đại phú hay quan lại mới rước dâu bằng ô tô ). Cuối năm đó anh Đê chúng tôi tình nguyện gia nhập vào Không Quân vào học khóa chuyên viên bảo trì máy báy tại TT HL Không Quân ở Nha Trang nhờ có vốn liếng tiếng Pháp ( lúc bấy giờ huấn luyện viên là người Pháp) còn chị Đê vẫn ở nhà và buôn bán lòng bò ở chợ Đông Ba. Chị rất thương tôi. Chính chị là người đầu tiên dẫn tôi đi xem phim ở rạp chiếu phim Tân Tân – phim Em bé đánh giày do Ấn Độ sản xuất, ngoài ra thỉnh thoảng chị dúi cho tôi vài hào lẻ để ăn kẹo hoặc cà rem, chị còn cho tiền tôi đóng học phí và mua sách vở .
Nơi đây tôi có nhiều bạn mới cùng trang lứa. Chúng tôi cùng chơi, cùng tắm ở bến sông trước đường Huỳnh Thúc Kháng, cùng tập thể dục buổi sáng. Dòng sông này được các vua triều Nguyễn cho đào để nối tắt sông Hương từ cồn Hến đến ngã ba Sình và chảy thẳng về bến Bao Vinh một thời nhộn nhịp ghe thuyền khắp nơi đổ về kinh đô Huế.
Trên sông thỉnh thoảng có đò còn chèo tay xuôi ngược văng vẵng những câu hò mái đẩy đối đáp đưa duyên. Nhưng thỉnh thoảng dòng sông bị khấy động do những đoàn xe lội nước của quân đội Pháp chuyển quân về mạn Thanh Lương, chợ Kè. Không khí chiến tranh vẫn bao trùm quê hương Thừa Thiên-Huế.
Tháng 10/1953 nhân lễ Tứ tuần Đại Khánh của Hoàng Đế Bảo Đại, học sinh như chúng tôi được Tôn nhơn phủ cho bánh kẹo và cả thành phố được đi xe buýt miễn phí một ngày và đây là lần đầu tiên tôi được đi xe hơi ( dù là xe buýt ). Tôi đón xe buýt đi lên bến xe chợ Đông Ba rồi chuyển qua xe hết đi Kim Long, về lại Đông Ba rồi lại đi Bao Vinh, An Hòa, An Cựu…Tôi có cảm giác thật sung sướng đươc dạo khắp thành phố Huế thân thương.
22 tháng 7 năm 1954 hiệp định đình chiến được ký kết giữa CP VNDCCH và chính phủ Pháp có sự bảo trợ của các cường quốc trên thế giới tại Geneve, Thụy Sĩ. Chính phủ Quốc gia do Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo có cử Phái đoàn do Ngoại trưởng Trần Văn Đổ cầm đầu. Xóm Kẻ Trài chuyển qua giai đoạn mới. Cuộc sống bà con trong xóm tôi dần khởi sắc, xóm làng sạch sẽ và an bình, không trộm cắp vặt và bà con lối xóm thương yêu, đùm bọc nhau như ruột thịt
Tháng 8 năm 1954 tôi thi hỏng kì thi nhập học vào lớp đệ thất ( lớp 6 ngày nay) trường công Nguyễn Tri Phương, phải xin vào học lớp đệ thất trường Tư thục Nguyễn Du, trên đường Hàng Đường, gần cầu Đông Ba. Trường do thầy Minh làm hiệu trưởng kiêm phụ trách giáo sư dạy Pháp văn. Thầy có cô gái rượu đẹp nổi tiếng một thời ở thành phố Huế- cô Nguyên Hảo. Môn Pháp văn tôi đã được học từ năm lớp nhì ( cour moyen ) ( lớp 4 ngày nay) nhưng chính Thầy Minh là người đã dạy cho tôi nắm bắt cơ bản cách phát âm và ngữ pháp tiếng Pháp. Trường có 1 đội ngũ giáo sư rất giỏi như thầy Phấn dạy Hóa, thầy Nguyễn Đình Chung Song dạy toán… Để có tiền đóng học phí lúc bấy giờ là 220 đồng một tháng, chị dâu trưởng của tôi, chị Thọ cho 100 đồng; chị Đê cho tôi 100 đồng còn mẹ tôi đóng góp 20 đồng
Để được bà con trong xóm cho tiền mua bóng, mua đồng phục cho đội bóng đá của thiếu niên trong xóm, chúng tôi luôn dọn dẹp vệ sinh trong xóm và bến nước chung , sạch đến nỗi từ bến lặn ra đến giữa dòng sông đáy toàn cát không một cọng rác. Do vậy vào các đêm mùa hè các gia đình trong xóm chúng tôi đều ra trải chiếu trên đám cỏ bên bờ sông đón gió và truyện trò và khoảng đến 9, 10 giờ đêm bà con xuống tắm rồi trở về nhà ngủ. Bên trái bến sông, người ta trồng 1 cây dừa từ thuở nào. Những đêm nằm hóng gió trên tấm chiếu cói trải trên đám cỏ trên bờ sông nhìn lên những tàu lá dừa rung động như những chiếc lược xanh được tóc gió chải qua thật thanh bình.
Những năm tiếp theo…
{jcomments on}
Cám ơn anh ĐT đã cho biết một địa danh Xóm Kẻ Trài, Phường Phú Bình, Thành Phố Huế.
Có lẽ anh viết bằng cảm xúc của chính mình về tình yêu quê hương và những kỷ niệm của thời thơ ấu nên bài viết của anh rất chân thật nhưng cũng nhiều xúc cảm:”Những đêm nằm hóng gió trên tấm chiếu cói trải trên đám cỏ trên bờ sông nhìn lên những tàu lá dừa rung động như những chiếc lược xanh được tóc gió chải qua thật thanh bình” .
Cám ơn anh ĐT. Chúc anh chị sức khỏe, hạnh phúc.
“Trên sông thỉnh thoảng có đò còn chèo tay xuôi ngược văng vẵng những câu hò mái đẩy đối đáp đưa duyên. Nhưng thỉnh thoảng dòng sông bị khuấy động do những đoàn xe lội nước của quân đội Pháp chuyển quân về mạn Thanh Lương, chợ Kè. Không khí chiến tranh vẫn bao trùm quê hương Thừa Thiên-Huế” (ĐT)
Những liên tưởng của anh ĐT cũng phong phú và trữ tình không thua gì bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Anh chị Châu+Kim Đức thân mến,
Cám ơn những nhận xét theo hướng tích cực trích Hồi kí của tôi. Vì là hồi kí nên tôi viết trung thực những gì đã xảy ra từng quảng đời cùng với cảm xúc thật của tôi nên có đoạn BBT đã lược bỏ vì …Xóm Kẻ Trài ( hay còn gọi là Xóm Măng Cá ) là nơi tôi cùng sống với gia đình cho đến khi tôi lên đường tòng chinh năm 1961. Đoạn đầu đời cho đến lúc sông ở xóm Kẻ Trài đã post lên Hương Xưa những năm trước. Anh chị xem trong mục tác giả Đào Thương và góp ý sửa chửa những nơi chưa hoàn chính giùm tôi nhé. Tôi đang sắp xếp một chương trình làm việc để hoàn tât cuốn Hồi Kí.Quảng thời gian ” đi vào nơi gió cát” rồi những năm ở trại tù binh, trại cải tạo… rồi làm phó thường dân… Khl xong thế nào cũng nhờ anh chị in ấn để kĩ niệm. Chúc anh chị luôn có nhiều niềm vui.
Những đêm nằm hóng gió trên tấm chiếu cói trải trên đám cỏ trên bờ sông nhìn lên những tàu lá dừa rung động như những chiếc lược xanh được tóc gió chải qua thật thanh bình.(ĐT)
SS cũng thích những câu kết của đoạn hồi kí này của anh Đào Thương. Khi nào in sách nhớ “xí” phần cho SS với nha a/c Thương Cầu.
A/C thật khỏe thật vui để thật dài lâu cùng hạnh phúc này a/c nhé.
Cám ơn Song Song.Có dịp lên Tay nguyên mời SS đến thăm tệ xá. Chúng tôi sẽ rất vui được đón tiếp.
Dạ SS cảm ơn a/c đã có nhã ý.. SS đã hưa..nhưng chưa có dịp đó thôi.
“Trên sông thỉnh thoảng có đò còn chèo tay xuôi ngược văng vẵng những câu hò mái đẩy đối đáp đưa duyên. Nhưng thỉnh thoảng dòng sông bị khấy động do những đoàn xe lội nước của quân đội Pháp chuyển quân về mạn Thanh Lương, chợ Kè. Không khí chiến tranh vẫn bao trùm quê hương Thừa Thiên-Huế.”
Những ký ức một thời tuổi thơ được anh viết bằng giọng văn chân thật nhưng lôi cuốn.
Chúc sức khỏe và hạnh phúc đến anh chị.
Anh Thương ơi ,đoạn hồi ký này đã làm sống lại Xóm Kẻ Trài và nhờ anh mà NS được biết thêm ít nhiều về nơi đó ,chừ không được như hồi xưa nữa đâu anh,nói như thế nào ha….,sông không còn trong xanh như ngày xưa ,trong những ngày mưa thi thoảng có những chiếc ghe câu cá xuôi ngược … cuộc sống xem ra nhếch nhách hơn ,duy chỉ có con người thì vẫn như cũ ,người già thì cứ nghĩ về chuyện cũ với những giấc mơ xóm phố bị bê tông hóa,còn đám con nít thì ngày càng hiện đại với điện thoại cầm tay……., học trò của NS chừ mỗi đứa mỗi nơi ,có đứa nghề nghiệp ổn định nhưng có em thì còn lông bông với những ước mơ làm được một cái gì cho cái xóm nhỏ của mình..,vậy là nỗi buồn cứ len vào choáng cả hồn..
Cám ơn anh nhiều nha,hồi ký vừa thật vừa giản dị như chính anh vậy,rứa mới hay anh ạ..
Bạn Mạnh Thu thân mến,
Hình ảnh dòng sông Đông Ba mình ghi lại trên đây có 2 giai đoạn. Đoạn đầu từ năm 1951 đến năm 1954 lúc chiến tranh Việt Pháp đang lan rộng và giai đoạn sau từ 1954 sau Hiệp định Geneve được kí kết cho đến năm 1961 lúc tôi hoàn tất chương trình học Đệ nhị cấp ở trường Quốc học Huế và lên Đà lạt: thời gian thanh bình.
Cám ơn nhận xét và lời chúc hạnh phúc của bạn.
NSPhạm à ” Không ai tắm trong cùng 1 dòng sông” Cuộc thế xoay vần và luôn đổi thay. Chỉ có điều việc đổi thay đó theo lối tích cực hay tiêu cực mà thôi.
Tôi rời Huế năm 1961 để rồi quay trở lại 2 lần. Lần thứ nhất vào cuối năm 1968 sau cuộc Tổng tấn công Tết Mạu Thân. Lúc đó chiến cuộc trên toàn vùng nam Việt nam đang vô cùng sôi động. Trên dòng sông thỉnh thoảng thay các xe lội nước cũ kỹ thời đệ nhất thế chiến của Pháp bằng các xe M113 tối tân của Mỹ viện trợ. Người dân Thừa thiên-Huế sống phập phồng trong lo sợ, bất an. Nông thôn và vùng cận sơn thì trận chiến giữa quân đội hai miền luôn xãy ra còn thành phố thì phải đào hầm tránh pháo kích thôi thì đủ loại nào hoả tiển 122 li của Liên xô. cối 82 li của Tàu.., Và lần thứ hai từ năm 1983-1985 người dân TT Huế cũng như đồng bào cả nước không còn lo sợ chiến tranh nhưng phải đối mặt với bao khó khăn thời hậu chiến. Sông Đông Ba lúc bấy giờ đã trở nên rất bẩn vì người dân đem rác thải đổ cả xuống sông, lại thêm vạn đò sống dọc trên sông càng làm cho dòng sông càng bẩn, không còn ai dám tắm sông…
Chúng tôi cùng chơi, cùng tắm ở bến sông trước đường Huỳnh Thúc Kháng, cùng tập thể dục buổi sáng. Dòng sông này được các vua triều Nguyễn cho đào để nối tắt sông Hương từ cồn Hến đến ngã ba Sình và chảy thẳng về bến Bao Vinh một thời nhộn nhịp ghe thuyền khắp nơi đổ về kinh đô Huế.
Bài hồi kí thật súc tích, hồi ở Huế lúc nước lụt em cũng có dịp di thuyền trên sông từ cầu Thanh Long về nhà chị Hảo ở Bao Vinh rồi đó anh ạ!
Để được bà con trong xóm cho tiền mua bóng, mua đồng phục cho đội bóng đá của thiếu niên trong xóm, chúng tôi luôn dọn dẹp vệ sinh trong xóm và bến nước chung , sạch đến nỗi từ bến lặn ra đến giữa dòng sông đáy toàn cát không một cọng rác. Do vậy vào các đêm mùa hè các gia đình trong xóm chúng tôi đều ra trải chiếu trên đám cỏ bên bờ sông đón gió và truyện trò và khoảng đến 9, 10 giờ đêm bà con xuống tắm rồi trở về nhà ngủ. Bên trái bến sông, người ta trồng 1 cây dừa từ thuở nào. Những đêm nằm hóng gió trên tấm chiếu cói trải trên đám cỏ trên bờ sông nhìn lên những tàu lá dừa rung động như những chiếc lược xanh được tóc gió chải qua thật thanh bình.
Câu chuyện anh Thương kể thật thú vị.