Tác giả: Nguyễn Thị Tuyết Đào
CHƯƠNG NĂM
MẤY AI HỌC ĐƯỢC CHỮ NGỜ
* * * * * * *
Nguyên Bình tựa hồ như kẻ sống ngàn năm trong bóng tối nay mới mở mắt nhìn mặt trời. Cả đời sống trong trang viện với bầy tiểu huynh đệ, ai nói chuyện tình yêu chàng cười ruồi dài dài. Nay đến cơ hội được ma ái tình xâm phạm tiết hạnh thì chàng ta không biết trời trăng gì hết, ngay cả tiếng gọi như sấm rền mà chàng ta cũng như đồ điếc. Chẳng mấy chốc cả hai đã phi thân khỏi trạm rừng già, thì tại chỗ cũ một hảo hán đến muộn ôm đầu bứt tai:
– Tức quá đi thôi, chậm một ly đi một dặm. Nghe giọng nói tuổi Mùi thì biết là hắn ngay chóc, vậy mà đến đây hắn đã cao bay xa chạy rồi. Trời ơi sứ mệnh không xong mặt mũi nào về nhìn sư phụ.
Vừa lúc đó có tiếng sơn ca ríu rít:
– Không dám nhìn sư phụ thì nhìn tui đi.
Nghe giọng nói dù không nhìn, gã con trai cũng biết chủ nhân giọng nói thuộc về hàng con cháu bà Eva, bèn cứ xây lưng mà nói với:
– Cô nương thuộc môn phái nào mà cả gan ra đường chọc thiên hạ không sợ phạm tội công xúc tu sỉ sao.
Thiếu nữ khúc khích cười:
– Tiếng đồn Trần Đức sợ con gái quả là bậy bạ! Chưa thấy gái mà đã biết là con gái, sao lại bảo sợ?
Trân Đức ngạc nhiên:
– Ủa! Tại hạ chưa từng biết cô nương cớ sao cô nương rõ ràng tường tận về danh xưng, tánh tình, y phục của tại hạ vậy?
Mỹ nhân nói lẫy:
– Trời ơi! Trần ca quả giống vô tình, thế hồi xưa ai nhìn Trần ca đến nỗi lé cả mắt?
Trần Đức hỏi han an ủi:
– Tội lỗi tại hạ gây ra biết nước sông nào rửa sạch. Thôi cô nương hãy ráng chờ đại, tại hạ đi học y khoa thẩm mỹ về chữa mắt cho.
Thiếu nữ ngúng nguẩy:
– Hổng chữa đâu! Sư phụ nói càng lé càng có duyên, mí lị nhờ lé nên ta đã luyện được Le Lé chưởng, xuất chiêu mười lần thắng đến hai chục lần.
Trần Đức gật đầu:
– Chí lí thay! Nàng nhìn ta giống như không nhìn ta, nàng không nhìn ta giống như đã nhìn ta. Chẳng khác nào ta không yêu nàng mà chính thực ta đã yêu nàng, ta không sợ nàng là đích thực ta sợ nàng.
Thiếu nữ hoan hỷ:
– Trần ca đã thuộc phần lý thuyết của Le Lé chưởng rồi đó, chỉ cần tiểu muội huấn luyện thêm vài ngón nữa là đủ trở thành một xuất phẩm của võ lâm về môn thờ vợ, hầu vợ và sợ vợ.
Sau vài lời phi lộ Trần Đức bèn vào phần nhập đề:
– Thế Dung muội đi đâu mà lạc bước đến nơi này.
Ngọc Dung đăm chiêu:
– Thế Trần ca mấy hôm lưu lạc giang hồ có thấy một trung niên thiếu phụ nào đeo bảy chiếc vòng ngọc quyết không?
Trần Đức bóp trán:
– Ồ! Hình như trưa hôm qua có thấy một sương phụ hãy còn thanh sắc đang đấu kiếm với bọn đạo sĩ áo xanh.Tại hạ bận đi tìm các tiểu huynh đệ nên không để ý trận chiến.
Ngọc Dung run rẩy:
– Trời ơi! Con ma nữ đem báu vật của sư môn để gây cảnh chết chóc.
Trần Đức ngạc nhiên:
– Bộ Dung muội biết bà ấy sao?
Ngọc Dung bèn kể cho Trần Đức nghe:
– Số là cách đây năm mươi năm, ở chân núi Hoàng hạc có một hài nhi vừa mới ra đời nằm oa oa khóc. Chả biết phụ mẫu là ai, đứa hài nhi mới sanh không sữa bú mà lại dài hơi cứ cất từng tiếng ré khóc. Gần đó quanh chân núi Hoàng hạc có vợ chồng tiều phu chuyên nghề đốn củi sống qua ngày. Bữa nọ ông tiều phu sau khi đốn củi trong rừng, chất củi bó đầy gánh sửa soạn quay về thì bỗng nghe tiếng khóc, lão chạy tới thì một cảnh tượng lạ lùng xảy ra. Một bầy hoàng hạc bảy con thi nhau mớm thức ăn cho đứa bé. Lúc đó đang là ban trưa mà đứa nhỏ nằm ngay chỗ nắng. Lão tiều định bụng ôm đứa nhỏ về cho vợ nuôi vì cưới nhau đã mười năm mà vợ chồng lão vẫn còn hiếm muộn. Nhưng không ngờ khi lão tới gần thì bầy hoàng hạc quạt cánh đuổi không cho lão tới gần đứa nhỏ. Đứa nhỏ ăn đã no vẫn còn khóc có lẽ vì nắng quá nhưng lão tiều không làm sao thực hiện dự định của mình, đành ra về kể vợ nghe. Hôm sau hai vợ chồng cùng trở lại nơi cũ thì chứng kiến một cảnh cũng không kém phần kinh ngạc. Đứa bé sau một ngày giang nắng và một đêm phơi sương vẫn còn sống, giờ đang ngủ ngon, nhưng đến khi ánh nắng mặt trời lên thì đứa bé lại tiếp tục khóc. Bà vợ lão tiều không biết vì dịu dàng hay thông minh hơn lão ta bèn nóng lòng la lớn:
– Bầy hoàng hạc kia nuôi con người ta mà không biết che nắng thì đừng nuôi.
Ai ngờ hoàng hạc hình như hiểu tiếng người, bèn để mộtcon canh chừng đứa bé, sáu con kia bay vù vù ra đi. Sau một hồi chúng mang về một chiếc vòng sắc trắng và một tấm kính pha lê. Chúng treo chiếc vòng ở một cành cây và đặt tấm kính trên một tảng đá, tức thì chỗ đứa bé bỗng phát ra bảy màu đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím rất dịu mắt. Đứa bé thôi khóc vì chỗ nằm của nó đã dịu mát quá trời.
Vợ chồng lão tiều thấy hoàng hạc hiểu chuyện thì lấy làm mừng bèn xin phép ngày ngày đến săn sóc đứa bé. Hoàng hạc tuy không hiểu tiếng người hoàn toàn nhưng thấy vợ chồng tiều phu không có ác ý gì nên bằng lòng cho hai người đến thăm viếng nghĩa là không xua đuổi nữa. Từ đó hai vợ chồng tiều phu bèn dời nhà đến cư ngụ ngay gần chỗ của đứa bé. Tuy vậy bầy hoàng hạc vẫn không cho vợ chồng lão ta mang đứa bé vào nhà mà còn bắt hai vợ chồng cũng phải sống duới tấm màn bảy màu này. Cuộc sống giữa người và vật kéo dài khoảng hai chục năm thì bảy con hoàng hạc lần lượt qui tiên. Đồng thời trên giang hồ cũng bắt đầu xuất hiện một môn phái mới, Lạc Loài phái, với chủ nhân ông sở trường về môn Tán Sắc chưởng lừng lẫy giang hồ. Nay vị tiền bối ấy đã cao niên, con dâu cháu chắt đề huề thì ông ta không còn tha thiết bon chen danh lợi nữa, bèn dùng chiếc vòng năm xưa và cái kính tán sắc biến chế bảy màu đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm,và tím thành bảy chiếc vòng có công dụng Tỵ Thủy, Tỵ Hỏa, Tỵ Phong, Tỵ Hàn, Tỵ Độc, Tỵ Ma và Tỵ Ngãi.
Vị tiền bối chả muốn tranh dành lợi lộc làm chi nhưng nàng dâu cả lại thèm bã vinh hoa bèn đánh cắp bảy chiếc vòng ngọc quyết và chiếc kính tán sắc, chỉ mong phối hợp bảy chiếc vòng này thành một chiếc vòng độc nhất để khi sử dụng Tán Sắc chưởng chiếm chức vô địch võ lâm.
Tuy nhiên giang hồ lẹ miệng vô cùng, Bạch Kim sương phụ vừa đánh cắp thì hào hiệp nổi dậy khắp nơi lấy danh nghĩa đòi lại vật quý của Lạc Loài phái để mong luyện tí chưởng pháp lấy chút máu mặt với anh hào. Sư phụ sai tiểu muội đi lấy lại đồ vật và trừng trị tên phản đồ trắc nết.
Trần Đức bâng khuâng:
– Dung muội vừa mới tuổi đôi chín võ công làm sao bì kịp với Bạch Kim sương phụ nọ?
Ngọc Dung kiêu hãnh:
– Dĩ nhiên đồ đệ cưng của sư phụ phải có bản lãnh hơn người, vả lại nội lực mụ ta có hơn tiểu muội nhưng mụ vẫn ngán Le Lé chưởng của tiểu muội.
Trần Đức tuy có biệt danh là mèo mù nhưng cũng ham ăn cá rán bèn nói:
– Chao ôi! Biết ngày nào mới thụ giáo được ngón đòn Le Lé chưởng của tiểu muội cho thoả lòng mong ước.
Ngọc Dung chụp lấy cơ hội:
– Hay bây giờ Trần ca và tiểu muội cùng đi tìm Bạch Kim mỹ phụ, luôn tiện trên đường đi tiểu muội chỉ sơ sơ cho vài ngón trong bí kíp Le Lé chưởng.
Trần Đức và Ngọc Dung sánh vai sóng bước. Thiên hạ hai bên đường thấy đôi thanh niên nam nữ cùng bách bộ ra vẻ thân ái bèn tò mò nhìn, đến chừng nhận ra Trần Đức thì “ủa” thật to. Trần Đức tình tứ nhìn Ngọc Dung âu yếm:
– Dung muội! Ngày xưa U Vương vì mê nụ cười của Bao Tự mà mất nước, ngày nay ta vì mê đôi mắt lé người Sơn tây của hiền muội mà cũng đành mất tiếng nhát gái lừng danh một thời, âu cũng là định mệnh.
Ngọc Dung e thẹn mỉm cười, mặt nhìn mặt cầm tay bâng khuâng không nói một câu, cả hai tuy là ði với sứ mạng tầm thù nhýng tuổi còn trẻ vả lại cũng có lòng quyến luyến nhau nếu lúc thì đố vui để học, lúc chơi trò trốn bắt, lúc lại dở vũ công mà luận bàn nên đi đã năm ngày mà chỉ được mấy mươi dặm đường.
Sáng hôm đó Trần Đức vừa phổ nhạc được vài bài mây nước bèn rống lên cho Ngọc Dung cảm động chơi:
Le lé lè le!
Em thích ăn me
Em ưa khóc nhè
Em chạy le te
Anh đuổi lè phè
Đuổi tới nhà Bè
Anh ngâm bài vè
Giọng anh lè rè
Như thể tiếng xe
Em bật cười khè
Cái lưỡi thè lè
Giống như ma le…
Trần Đức quả là chính hiệu con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô, ai đời gò gái bằng cách chê gái.
Ngọc Dung ức quá nên kê tủ đứng liền:
– Mầm ca! Cái tên cúng cơm của Mầm ca mùi mẫn lắm.Cớ sao lại có tên Mầm bất hủ vậy?
Người đẹp đã để ý vậy mà Trần Đức vẫn phom phom lạy ông tôi ở bụi này dù ông không tìm, dù nàng rất có duyên tôi vẫn không thèm dấu diếm:
– Dung muội biết vì sao không? Ngu huynh có tính ăn nhiều, ăn mau, ăn vũ bão còn hơn B52 dội bom miền Bắc. Vì ăn mau nhai không kỹ nên sau khi uống nước bón phân thì có một số hạt đậu nảy mầm đâm chồi tuơi tốt. Thấy hiện tượng kỳ lạ, sư phụ bèn gọi là Mầm để nhớ giai thoại kỳ thú trên đây.
Sợ rằng Ngọc Dung vẫn chưa hiểu tâm tình mình, Trần Đức cảm khái tán thêm vài ba câu ếch nhái:
– Dung muội! Tiểu huynh giống như hạt mầm ở cao nguyên Decan bốn mùa nắng cháy, Dung muội có thươngtình nhỏ cho vài giọt lệ đài trang thì mói mong cây tình yêu sinh sôi nẩy nở, còn không cũng chỉ là hạt mầm khô queo chết tiệt mà thôi.
Ngọc Dung cảm động nhìn Trần Đức, và cứ tưởng mình là con nhỏ Hoàng Dung bên cạnh QuáchTĩnh trong chuyện Anh Hùng Xạ Điêu!
Hai người đến Tô Châu trời đã xế chiều, đây là một thị trấn nhỏ nhưng rất sành về các món ăn chơi. Ai đã từng đến Tô Châu chắc không quên các cô vũ nữ thân gầy yểu điệu trong bộ quốc phục Trung Hoa cổ điển hay lả lơi trong những tấm sìn-phào óng ánh kim tuyến. Tô Châu! Tô Châu! Cái xứ thanh lịch cũng giống như tên vậy. Tửu điếm mọc lên san sát đầy nhóc người, tiếng champagne nổ ròn rã, những ly rượu vang sủi bọt lăn tăn, mùi mai quế lộ thơm lừng,và hương trà lipton, trà cúc, rượu dâu nồng nàn ấm cúng. Tô Châu không dành cho riêng ai. Trời sinh Tô Châu để huy hoàng với tất cả mọi người mọi giới – phú thương, quan lại, nho sĩ, vũ sư, tiểu thư, vũ nữ… Tô Châu, thành phố ngày nào cũng là Chúa nhật, cũng là Tết trung thu, Đoan ngọ, thành phố không có đêm, thành phố không có tuổi. Nơi đây người ta sinh ra và lớn lên để tận hưởng tuổi trẻ của mình tự do, phong phú, thanh xuân. Ngày tháng trôi qua và không ai níu lại được. Cách đây hơn một thế kỷ trước Thiên Chúa, Heraclitus chả từng buồn bã than van với các đồ đệ ông đó sao:
“Không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông.”
Đó cũng là câu cách ngôn, nhật tụng của dân Tô Châu. Người ta hái vội những bông hồng trên cửa sổ không thèm nhìn xa vì biết ở chân trời xa xôi ấy là một rừng ngát kim hương hay đầy rẫy những gai nhọn đang chờ…
Đôi bạn rẽ vào một con đường nhỏ trong thị trấn để tìm quán trọ. Trần Đức cao hứng nói với Ngọc Dung:
– Dung muội! Con gái ở đây xinh đáo để, tiểu huynh muốn đóng đô ở đây quá.
Ngọc Dung thở dài:
– Cái bệnh nhát gái vừa chữa lành, cái bệnh ba lăng nhăng đã sơ khởi. Có ưng tui cắt lưỡi xẻo tai bóp rau răm muối tiêu hông?
Trần Đức sợ quá bèn đọc cửu chương nịnh:
– Chao ôi, mắt của Dung muội khi mà giận dỗi nổi tam bành lên thì hết sẩy, ngu huynh cam đoan mắt nhung của Gina và mắt buồn của Liz Taylor mà đem sánh với mắt của hiền muội chỉ vào hạng đem vất mà thôi.
Hai người thay đồ, đi bát phố một vòng rồi sau đó về mới tính chuyện cơm nước. Nửa khuya vì lạ nhà nên Trần Đức không sao ngủ được, chàng thơ thẩn dạo hành lang quán trọ bỗng nghe xa xa tiếng kim khí chạm vào nhau loảng xoảng. Sanh nghi Trần Đức chạy lại gần xem thì thấy một mỹ phụ tóc óng vàng hoe sợi nhỏ đang bị ba hảo hán bao vây.
Gã thứ nhất đôi mắt to, ngàn quang chiếu ánh sắt bén vào mỹ phụ hằn học:
– Bạch nương tà! Giang hồ đã biết việc nàng bội phản sư môn ăn cắp bảy chiếc vòng ngọc quyết, vậy khôn hồn giao cho ta, ta mở sinh lộ cho!
Gã thứ hai đôi mắt thâm u như hai ngõ động thuồng luồng, giọng nói như ma hờn quỷ khóc:
-Bạch Kim! Mười hai năm trước nàng có hẹn với ai ở cầu Phệ Thủy trước khi làm dâu cho con gã Lạc Loài. Nay ta vâng lời người bạn cũ đến đây thu thập báu vật để trừ nợ ân tình nghĩa cũ.
Mỹ phụ hình như rung động vì câu nói của gã thứ hai, toàn thân bỗng rùng mình và nơi đôi mắt ảo não nhưng đôi ngọc huyền đã chết ánh sáng, đôi dòng lệ long lanh. Nàng ấp úng hỏi:
– Gã đã chết từ chiều xưa nơi thung lũng Tuyệt Tình cơ mà.
– Làm sao mà chết để cho nàng học nòi phàn bội hay sao?
Đôi mặt mỹ phụ chợt bừng sáng:
– Ngươi cho ta gặp chàng mau!
Đại hán ra điều kiện:
– Hãy trao bảy chiếc vòng đây rồi ta dẫn đến gặp tình lang thuở ấy.
Mỹ phụ nghi ngờ:
– Tín vật đâu? Có gì để làm bằng chứng là y còn sống?
Đại hán cười rùng rợn:
– Đây này!
Tiếp theo y thừa lúc mỹ phụ bất ý, tung một chiêu lẹ làng mười ngón tay như mười con nhím nhắm vào bả vai mỹ phụ chộp tới. Mỹ phụ không ngờ đại hán nọ giở trò tồi tệ, đến chừng sực tỉnh thì không kịp chống đỡ và cái chết tưởng chừng đã đến nơi. Trần Đức thấy lòng dạ kẻ tiểu nhân thì máu hào hiệp nổi lên, nhảy vào chiến trường hò hét lung tung như chỗ không người:
– Quân cẩu trệ, có ta đây đừng hòng bắt nạt đàn bà con gái!
Trần Đức vừa nói vừa xòe hai tay theo kiểu băng qua đường hẻm cỡi mây tức dùng thế Phi Vân Tiểu Lộ nhắm vào đại hán nọ tấn công tới tấp. Không dè gã thứ ba từ nãy giờ lặng thinh đợi lúc gã thứ hai giở trò ăn hiếp thiếu phụ thì tung chưởng nhắm vào đại hán nọ để cứu thiếu phụ. Vì gã thứ ba- tức đại hán áo đen- đứng đối diện với Trần Đức, thế gã dùng để cứu mỹ phụ là thế độc nhất trong võ lâm, Búa bổ đầu người, tức là hai bàn tay chụm lại như hình lưỡi liềm bổ xuống. Thế đó là thế hiểm ác nhất, khi xuất chiêu thì ba mươi sáu huyệt trong người đều ngừng cử động, bao nhiêu nội lực đều dồn vào đôi bàn tay và sức mạnh tịnh tiến gấp mười lần sức mạnh nguyên thủy. Đó là một phương pháp bí truyền của quái khách Chung Nam sơn thuở nọ.
Ngày xưa tương truyền rằng dãy Chung Nam có bảy hòn núi nhỏ bao quanh một hòn núi lớn. Ngày nọ có một quái khách trên đường nhàn hạ bỗng gặp khung cảnh hữu tình sinh lòng cảm mến muốn định cư ở đó. Sống nơi này được hai năm thì bị một cao nhân đến muốn chiếm cứ nơi hữu tình này. Sự đời vẫn thường xảy ra như vậy, cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh hà hiếp người yếu, cho nên sau hai trăm năm mươi hiệp thử tài thì quái khách đành phải giao nơi cũ cho vị cao nhân mới rồi ra đi không kèn không trống. Mười năm sau y trở lại thì chủ nhân mới đã thay đổi cảnh cũ quá hoàn bị. Khắp bảy hòn núi quanh ngọn Chung Nam đều trang bị thú dữ, cỏ độc và những cạm bẫy cùng máy móc giết người. Nóng lòng muốn gặp cừu nhân, ông ta áp dụng một thế chưởng mới là chưởng “Búa bổ thủ nhân” bóp tan bảy hòn núi nhỏ trong khoảnh khắc. Tất nhiên cao nhân ngày trước cũng phải chết đau thương dưới làn chưởng oan cừu nọ. Quái khách đã chiếm trở lại được Chung Nam sơn nhưng đâu còn Chung Nam sơn ngày cũ. Đổ vỡ thì dễ cứ xây dựng khó khăn vô cùng. Mất bảy ngọn núi nhỏ, ngọn Chung Nam nằm trơ vơ tầm thường như bất cứ ngọn núi vô danh nào của Trung Quốc. Giấc mơ giết được kẻ thù đã thành công nhưng lòng quái khách cũng tan hoang đau đớn. Ngọn Chung Nam bỗng thành vô chủ, quái khách bỏ đi không biết lưu lạc nơi nào. Câu chuyện tưởng cũng nhạt nhòa theo năm tháng nếu không còn những câu tuyệt bút não nề mà quái khách đã ghi lại trên những tảng đá ở Chung Nam, nơi mà mười năm trước được xưng là đệ nhất thắng cảnh mà quái khách ngỡ là nơi chung thân đời đời kiếp kiếp của mình.
Lâu lắm rồi chưởng Búa bổ thủ nhân chỉ còn là huyền thoại, quái khách không xuất hiện và giang hồ không ai sử dụng, nay đại hán áo đen đem ra áp dụng tưởng chừng cả Mỹ phụ, đại hán thứ nhì và cả Trần Đức đều tan xác. Chính gã đại hán thứ nhất khi thấy đại hán áo đen dùng chiêu tuyệt chưởng võ lâm thì bổng dưng á khẩu không thốt nên lời, ba mươi sáu kế chỉ còn đường tẩu mã là thượng sách.
Nhưng không ai ngờ được cuộc chiến biến đổi khôn lường. khi chưởng được chạm nhau sẽ có một tiếng nổ kinh hồn như bom nguyên tử nổ và rồi tất cả sẽ thành nắm tro tàn và chỉ mình quái khách áo đen ung dung tự tại. Nhưng tiếng nổ đó không bao giờ có và đại hán áo đen, đại hán thứ nhì đều co rút như con tôm ngã nhào xuống đất run lẩy bẩy, đồng thời nơi hai cánh tay Trần Đức nội lực tăng trưởng ào ào giống như người sắp chết được truyền bình sérum protéin.
Vì sao?
Trần Đức cho dẫu nằm mơ suốt đời cũng không ngờ là mình chỉ trong phút chốc trở thành người tài ba nhất thiên hạ. Đại hán áo đen cũng đâu ngờ sau bao năm luyện võ, thân mình bỗng trở thành kẻ trắng tay và suốt đời sẽ không còn biết dùng một chưởng nhỏ.
Ai xui tạo hóa bày đặt chuyện tức cười ra nước mắt. Trần Đức cũng như tất cả môn đồ của Hồn Nhiên sư phụ tất nhiên phải nằm lòng câu cúng cơm của nội tổ: “Sư phụ hồn nhiên, đệ tử hồn nhiên, mọi người ai ai cũng hồn nhiên.” Lý thuyết của giáo phái là nhân hòa, cứu cánh là vô tư yêu đời tha thiết và phương tiện là chỉ dùng thế hư để đỡ và lóe mắt thế gian. Cho nên công lực mà Trần Đức đã sử dụng trong Phi Vân Tiểu Lộ là công mà không tốn sức. Thế hư này nhờ những cử động của chân tay giống như một lực ma sát tạo thành công cản. Tuy là công nhưng bản chất của nó là năng lượng tức là công tĩnh. Quái khách khi thấy Trần Đức ra tay đâu ngờ gặp cái công oái oăm như vậy bởi công của đại hán áo đen là thứ công động ghê hồn, phải tận dụng cả ngũ quan và huy động mọi cơ năng nên sức mạnh tạo ra vô thủy vô chung, núi non cũng nát huống hồ người ta.
Giả sử Trần Đức cũng sử dụng một công động tương đương với quái khách thì theo nguyên tắt công chạm công thì công tản, tức là nội lực của ai trả về người ấy, tợ hồ như tính chất vật lý của thanh nam châm, nếu hai cực cùng chiều thì đẩy nhau, khác chiều thì hút nhau. Cho nên thứ công động của đại hán áo đen và quái khách khi hợp nhau thì bị thứ công hư của Trần Đức hút hết. Duy có mỹ phụ không tận dụng võ công cho nên không mất nội lực mà cũng chả thêm được tí nào.
Buồn cười cho hai gã đại hán lúc sa cơ thất thế mà cũng không chừa tính hung tợn, hai gã hăm hở dọa nạt Trần Đức:
-Tiểu tử kia! Ngươi dùng yêu tà gì mà lấy hết nội lực của mỗ gia, trả đây không thì chớ trách mỗ gia độc ác.
Trần Đức vốn người ngay thật, thấy người sa cơ đem lòng thương hại bèn nói:
– Lão tiền bối! Tiểu nhân đâu muốn như vậy, bây giờ làm sao trả nội lực cho nhị vị tiền bối?
Hai lão già nghe Trần Đức nói thì biết đây là loại ngu bỏ vào nồi nấu súp một trăm năm vẫn chưa hết ngu. Càng nghĩ cái nội lực vô song của mình đã mất càng uất hận, càng nghĩ đến cái nội lực Trần Đức đã có thì vừa sợ, vừa ganh ghét bèn sinh dạ tiểu nhân xúi bậy, giả giọng hiền hòa:
-Tiểu huynh đài! Khó gì đâu, mỗ gia đâu có sống bằng cơm cháo mà nội lực là thức ăn. Khi xâm nhập vào cơ thể của tiểu huynh đài thì giống như thức ăn, nhờ gan và tụy tạng đã biến thành huyết. Nay tiểu huynh đài muốn trả lại nội lực cho mỗ gia thì cứ việc lấy dao cắt đứt gân máu rồi nhỏ vào miệng lão huynh là xong chuyện.
Trần Đức quả không hổ thẹn với danh hiệu “Ngu vô địch” bèn tìm dao để thực hành lời của lão già hung ác nọ.
Vừa định ra tay thì được mỹ nhân ngăn cản:
-Tiểu huynh đệ! Đừng có nghe lời hai lão già chết bầm đó, theo lời lão thì chỉ có nước xuống âm phủ mà thôi. Bộ không biết Marylyn Monroe chết dại vì đem gân đi thử sức dao hai lưỡi đó sao?
Trần Đức hoảng hồn mới vỗ trán ba cái mà nhủ thầm rằng thôi nhất định không thèm ngu nữa, để dành ngày mai xài tiếp. Ai dè công lực quá dồi dào nên chỉ vỗ nhẹ ba cái mà cái trán đã nổi lên ba cục u to tướng như ba cái sừng tê giác Phi châu.
Mỹ phụ trông thấy vừa kinh sợ vừa tức cười quá đỗi. Trần Đức mắc cỡ định chạy trốn thì mỹ phụ lấy bảy chiếc vòng ngọc quyết và kính tán sắc giao cho Trần Đức rồi nói:
-Tiểu huynh đệ! Thấy tiểu huynh đệ lòng dạ ngay thật ta động lòng trắc ẩn mà tặng báu vật này.
Trần Đức ngạc nhiên mới hỏi:
-Này đại tỷ! Của này là của linh tổ bản phái nào của tỷ cớ sao đại tỷ lại trao cho tiểu đệ?
Mỹ phụ buồn rầu bảo:
– Tôi tay yếu chân mềm, vì nổi lòng tham đã ăn cắp báu vật của sư môn nay còn mặt mũi nào trở lại nữa, vả lại tiểu huynh đài tuy là người không thân mà là người thân nên giữ báu vật ấy là phải.
Trần Đức vẫn giống như con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá hồn nhiên.
– Đại tỷ nói làm sao tiểu đệ không hiểu?
Mỹ phụ chúm chím cười:
– Thôi đi cha nội, đừng có ngây thơ cụ, chớ mấy ngày nay cha nội và Dung muội chả đi rước đèn khắp vùng Hoa nam đó sao?
Trần Đức sực tỉnh bèn mời mỹ phụ:
– Đại tỷ có về khách sạn thăm Dung muội không?
Mỹ phụ lắc đầu:
-Ta với Dung muội ngày bữa gì chả được, tiểu huynh đài cứ về đi và bảo Dung muội đừng giận ta nữa nhá!
Trần Đức y lời về quán trọ, gõ cửa phòng Ngọc Dung thì được tên tiểu nhị trao cho mảnh giấy nhỏ bên trong ghi vội mấy dòng ngắn:
Trần ca,
Đại huynh ham đi đâu mà tiểu muội tìm hoài hổng thấy bèn xuống phố sắm đồ đôi chút. Đại huynh nhớ chín giờ sáng nay ta điểm tâm xong khởi hành đấy nhá.
Ngọc Dung
Thấy còn sớm, Trần Đức mới tiện đường xuống phố mà đón Dung muội, nào ngờ đi ngang nhà may Đà Lạt thì bỗng gặp một mỹ nhân xinh như hoa đang vén rèm liếc xéo. Quả là đại vô phúc cho Trần Đức, phải chi mà cái bệnh nhát gái mà còn thì đâu xảy ra cớ sự đáng tiếc như vầy.
Mỹ nhân liếc nhìn Trần Đức:
– Trần ca đi mô đó?
Nghe giọng oanh vàng rỉ rả, Trần Đức như người ăn cháo lú bèn vô đề nói bậy:
– Có thấy Dung muội đâu không?
Mỹ nhân bỗng nổi ghen đùng đùng:
– A! Té ra bị con nhỏ Dung cắm sừng quất ngựa ra đi rồi mới đoái hoài đến bản cô nương phải không?
Trần Đức từ khi hết bệnh nhát gái thì đâm ra thèm nói chuyện với gái quá chừng bèn xin lỗi lia lịa rồi giả lả:
– Nghe đồn tiệm may Vân muội may khéo thành ra đến đây may vài bộ vía.
Nhỏ Vân đỏng đảnh:
– Để cưới vợ hả?
Trần Đức bổng nổi máu cà chớn:
– Ờ! Ai yêu tôi, tôi cưới, ai không yêu tôi tôi cũng cưới, cưới nhiều chừng nào càng mọc nhiều sừng chừng ấy, càng mọc nhiều sừng càng thấy phong.
May cắt xong, Trần Đức lẳng lặng ra về, giữa đường gặp Ngọc Dung đi tới mừng rỡ:
– Trần ca! Huynh đi đâu mà hiền muội kiếm tận nãy giờ.
– Đi lai rai lốc rốc vậy mà. À! Hiền muội, ngu huynh đã tìm được bảy chiếc vòng ngọc quyết và cái kính tán sắc cho muội rồi nè.
Ngọc Dung mừng rỡ:
– Đâu trần ca?
– Đây nè!
Vừa nói Trần Đức vừa thò tay vào túi áo lấy báu vật ra, nhưng sắc mặt chàng tái mét vì túi áo trống rỗng. Bảy chiếc vòng và cái kính không cánh mà bay. Chàng ta lắp bắp:
– Chết cha, chắc làm rơi ở tiệm may.
– Tiệm may nào vậy?
– Đà Lạt
Ngọc Dung nổi tam tinh tá hỏa lên:
– Trời ơi! Đưa cho nó rồi bị nó cắm sừng, bây giờ lơ thơ lẩn thẩn vậy phải không?
Ngọc Dung nắm áo Trần Đức lôi xềnh xệch, miệng không ngừng la bai bải:
– Tới đây! Tới đây! Đòi lại cho tui không thì chết! Ai bảo ngươi là nhát gái, phải đề nghị sư phụ sửa lại tên ngươi là dại gái mới đúng.
Trần Đức hoảng hồn:
– Dung muội! Đừng ép tiểu huynh quá, tiểu huynh phải sử dụng võ lực thì Dung muội bỏ mạng như chơi.
Ngọc Dung dí tay lên trán Trần Đức:
– Trời ơi! Mới nói chuyện có vài phút mà quên hết tình nghĩa tào khang, còn đòi ăn tươi nuốt sống người ta để tự do sống chung hòa bình với nó phải không?
Trần Đức nhủ thầm, trong điều ba mươi sáu của luật sợ vợ có dạy rằng, khi vợ hay bồ ta giận thì nó mắng ta cứ việc nghe, nó đánh ta cứ việc chịu đựng. Trước ngọn lửa hỏa diệm sơn đang ào ào phun lửa, Trần Đức sợ quá bèn dùng ba mươi sáu kế vi tẩu là thượng sách, ra đi với hành trang là ba chiếc sừng trên trán.
(Còn tiếp)