Con Đường Xua Ta Đi (TT)

Tác giả: Trần Ngọc Phương

(Tiếp Theo)

Con đường muôn nẻo.

 

Con đường bây giờ tỏa ra nhiều hướng, nhiều ngã rẽ, mà ngã nào cũng thu hút lôi cuốn người ta vào khám phá những đam mê mới mẻ. Con đường không còn đi bộ mà đi bằng xe, bởi bà chị gởi tặng cho chiếc xe năm mươi phân khối để đi học. Con đường không chỉ một điểm đến mà nhiều điểm đến. Con đường tự mình tìm và tự mình chọn. Và không bắt buộc phải đến, hay phải lui tới hàng ngày, chỉ cần ghi danh và có mặt ngày thi, và kết quả là vận mệnh.

Lần đầu theo chân người bạn đến kí túc xá nữ sinh viên nằm ở đường Trần Quí Cáp. Con đường đầy bóng mát với hàng cây me cổ thụ chạy dọc hai bên. Vừa qua khỏi cổng lớn bước vào sân như lọt vào xứ nữ nhi quốc, hàng chục cặp mắt từ khắp nơi từ trong sân, từ hành lang trên lầu một lầu hai nhìn vào tôi và anh bạn. Buổi sáng cuối tuần các cô sinh viên nữ hình như đều lo lăng xăng sinh hoạt cá nhân. Họ nhìn hai chúng tôi với ánh mắt như dọ hỏi, như đánh giá, như ngạc nhiên? Làm chúng tôi ngượng ngùng, lóng ngóng, thiếu tự nhiên. Cũng kì lạ thật, đàn ông nam nhi chi chí, đầu đội trời chân đạp đất, lại dễ nhũn người ra trước những cặp mắt tròn xoe của bọn con gái. Anh bạn học tóc dài dáng vạm vỡ ngày thường oai phong thế mà cũng khép nép vâng theo lệnh các cô vào phòng sảnh ngồi chờ, không dám rảo bước dạo quanh. Tôi rụt rè bên sau, theo từng bước chân anh, nhưng mắt ngó tứ tung ra vẻ ngơ ngác. Thật ra là ngơ ngác thật, chứ khỏi cần ra vẻ. Anh bạn tôi đến tìm địa chỉ này để gởi tiền và thư nhắn của gia đình từ quê nhà đến cho người chị em họ đang học ở Sài Gòn. Anh cũng như tôi lần đầu tiên vào Sài Gòn và cũng lần đầu mới biết có một chỗ ở gọi là “Kí Túc Xá” dành cho nữ sinh viên như thế.

Bọn con gái ở trường thì gặp nhiều, áo quần thướt tha, qua lại nhan nhản, nhưng thường không ai lưu ý. Bởi họ chẳng quan tâm tới ai, và chẳng ai quan tâm tới họ, trừ cô nào đó vóc dáng nổi trội. Nhưng một đám con gái, áo thun, quần lỡ, áo pull xộc xệch, quần đen xoắn lưng, hay diện cả bộ đồ ngủ, đi dọc ngang, qua lại trong sân, trong hành lang trên dưới, đưa mắt nhìn dọ hỏi, ánh mắt như hình viên đạn chăm chú nhìn xoi mói. Giống như lạc bước vào động yêu tinh nhền nhện đang dương mắt trừng nhìn. Bọn thanh niên choai choai chúng tôi làm sao mà không rét. Cảm giác này làm tôi nhớ mãi, và ấn tượng này khắc ghi trong lòng khó bao giờ quên. Thế mới biết, cứ tưởng mình ngon, mình ngầu, mình chì, mình lì, thì cũng có lúc đôi chân bủn rủn, đôi tay lóng ngóng, trước bọn yêu tinh yếu xìu.

 

Nơi thành phố đường xá chằng chịt, xe cộ tấp nập, và sinh hoạt nhộn nhịp này tôi có một cái cảm giác là lạ, khác với các thành phố miền Trung quen thuộc khi ấy, nhưng cái mới là lạ gì thì chưa nhận biết, chưa tìm ra.

Sài Gòn có bến Chương Dương.

Có Dinh Độc Lập có đường Tự Do

Có Chợ Quán, có Cầu Kho.

Bến xe Lục Tỉnh, con đò Thủ Thiêm.

Bài học thuộc lòng thời tiểu học tôi vẫn còn nhớ, và sẽ không bao giờ quên. Bởi  bắt buộc phải thuộc những từ ngữ, những địa danh, không biết và không hiểu nó ở đâu. Và nó có nghĩa gì. Ông thầy giáo ở quê cũng không biết và cũng chưa từng thấy nó như thế nào. Nhưng lại bắt bọn học trò học thuộc lòng, nếu không, phải sè lòng bàn tay mà nhận mấy phát cây thước kẻ đau thấu trời đất. Chạy xe trên đường phố lạ không quen, đã lạc đường nhiều lần. Nhưng dần dần cũng biết con đường Tự Do, là con đường sang trọng thanh lịch bậc nhất khi ấy, và bến phà Thủ Thiêm thì ở nơi cuối đường.

Bây giờ thì nhận ra rồi, dù hiệp đinh Paris vừa kí xong, Mĩ rút quân về nước, nhưng cuộc chiến lấn đất dành dân của hai bên vẫn tiếp diễn. Nhận ra điểm Sài Gòn khác biệt với các thành phố miền Trung là rất thanh bình. Thanh niên nam nữ ăn mặc đẹp hơn, hợp mốt hơn, nét mặt tươi sáng thanh thản, không khắc khổ, không lo lắng đến bom rơi đạn nổ, và dường như không hề biết có chiến tranh. Làm sao không nhận ra được hình ảnh các cô gái trẻ trung tuổi mười chín đôi mươi, tóc demi garcon hay dài phủ lưng, với áo ngắn tay bó sát, với mini jupe sậm màu, chạy xe tung tăng trên con phố thênh thang Lê Lợi hay Nguyễn Huệ, hay Hàm Nghi. Chiếc áo dài trắng thước tha quen thuộc hằng ngày không còn lôi cuốn cái nhìn tôi nữa. Hình ảnh các cô gái mặc mini jupe chạy honda hay xe PC trông khỏe khoắn tươi vui lướt vút qua trên đường phố, mới là hình ảnh gây ấn tượng, niềm mơ ước của các chàng trai.

 

Con đường học vấn mông lung, không biết đích đến, cả điểm đến. Gặp được lớp đàn anh nào, thì cũng hỏi thăm và nhờ họ chỉ vẽ cho con đường. Anh A sinh viên năm tư Đại học Quân Y thấy một “tân binh” thành khẩn xin chỉ giáo, anh bỏ công chở đến Đại học Y Minh Đức chi nhánh mới mở, gần chỗ nhà trọ, cơ sở nhỏ không có gì nhiều để xem. Anh chở đến Đại học Bách Khoa đường Nguyễn Văn Thoại, ngôi trường với khuôn viên thoáng đãng, và bãi cỏ trước rộng bạt ngàn, chỉ xem cho biết, chứ môn học không dính dáng gì ở đây, rồi có ý quay về. Nhưng chỉ cần tỏ rõ một chút vui vẻ, một chút lễ độ tôn trọng người đàn anh từng trải. Anh vui lòng chở thẳng xuống trường Đại học Y đường Hồng Bàng, nơi anh đang theo học rồi được tuyển qua quân đội, để tham quan.

Ngôi trường thật bề thế và khá đẹp với ba tầng lầu. Anh dẫn lên tầng lầu trên qua hàng lang thông thoáng nối hai buiding đến phòng giải phẩu cơ thế. Nhìn qua cửa sổ kính, bên trong chứa mấy chục chiếc quan tài màu xám thiết kế hình hộp chữ nhật giống chiếc tủ sắt đặt nằm ngang, sắp xếp thứ tự trong hội trường rộng lớn. Anh nói những xác chết vô chủ trong bệnh viện, do chiến tranh hay tai nạn, được xin về bảo quản ở đây, khi sinh viên tới tiết học thì mở hòm sắt ra mổ xe học hỏi. Hết lớp này đến lớp khác, mổ xẻ cho đến khi xác nát vụn không dùng được nữa thì gom đem thiêu hủy. Tôi tưởng tượng mấy chục xác chết được nâng lên mặt hòm một lúc, với những khúc chân tay rời, với những nhát dao mổ xẻ để xem xét hiểu cấu trúc từng lóng xương, từng sớ thịt, từng lá gan, lá phổi thì rợn người. Con người khi còn sống thì linh lợi hoạt bát, chạy nhảy khắp nơi, yêu đương hay thù hận, sung sướng hay đói rách, mưu sâu kế hiểm hay nhân hậu vị tha cũng là thành những cái xác khô, như những cái xác vô hồn lạnh lẽo đang nằm kia. Cái cảm giác này giống cảm giác khi ta đứng giữa nghĩa địa trong buổi chiều tàn lạnh giá. Thấy cõi nhân sinh sao mà ảm đạm, cuộc sống thật vô thường đến rồi đi.

Thấy như chưa đủ tác động kích thích đầu óc, anh tìm người quen xin mở cửa phòng lưu trử thai nhi. Cửa phòng ra, cứ ngỡ là nơi trưng bày các lọ hũ rượu thuốc, ngâm sâm nhung hay quế bổ, ở các tiệm thuốc đông y. Đến nhìn kĩ từng từng hũ lọ thì giật mình kinh khiếp. Đó là những thai nhi đúng hơn là những quái thai. Mỗi hũ lọ thủy tinh là những thai nhi hình thù kì dị, một sừng hay một mắt, một thân có đuôi, hay một chân không tay như củ cà rốt, mặt mày méo mó dị dạng, đáng sợ. Kẻ nhác gan không ai dám nhìn lâu. Những hũ lọ nước ngâm nhàn nhạt này chưng bày trên kệ chạy dọc khắp các bức tường, như một là phòng triển lãm các hũ rượu ngâm củ sâm. Con người mà như thế này ư? Đủ hình thù quái dị, người bình thường không thể tưởng tượng ra được những hình ảnh như thế này. Nhưng, những sinh vật nhỏ bé này nằm ở đây, có lẽ đã là may mắn. Nếu chúng sống sót qua cơn sinh nở, số phận chúng sẽ như thế nào trên cõi đời? Trong lòng thấy u ám, không thể không nghĩ đến số phận một sinh vật là con người, có cảm xúc buồn bã dâng lên. Nhưng sao lại không thèm nghĩ mình có đủ chân tay như thế là may mắn, thế vui mới phải chứ? Tôi đã không bao giờ quên cái phòng giải phẩu xác lạnh lẽo và phòng thai nhi ngâm formal như ngâm rượu thuốc ấy suốt cả đời.

Xong hôm ấy, tôi không còn gặp lại anh. Tôi và anh không hề quen biết trước, chỉ tình cờ gặp nhau một đôi lần. Nhưng có lẽ thấy một “tân binh” ngu ngơ, vào thành phố lớn, không người quen, mà không có chút hiểu biết gì con đường mình phải đi, sẽ đi, và điểm đến là nơi đâu, giống hình ảnh của anh bốn năm năm về trước, trong túi xách chỉ mấy bộ quần áo cùng dăm ba quyển sách học vào thành phố lạ, nên động lòng trắc ẩn mà giúp đỡ. Cái điều này rất hữu ích, bởi nhiều bạn giỏi nhưng thiếu thông tin phổ cập hổ trợ nên chọn không đúng con đường, để rồi vận mệnh phải thay đổi.

Việc tham quan này làm tôi do dự con đường dự định mơ hồ theo đuổi trước kia, hội đủ điều kiện ghi danh năm đầu (không phải thi), do kết quả tốt qua hai kì thi tú tài, để trở thành đồng môn với anh, đã lỡ ngày ghi danh. Tôi chuyển hướng suy nghĩ về Văn Khoa, ngôi trường mà mọi người trong xã hội ưu ái, nhắc đến nó với lòng đầy thiện cảm. Năm đệ lục, thầy K dạy văn, chỉ đậu hàm thụ năm thứ nhất Văn Khoa Sài Gòn mà đã rạng danh, cả trường ai cũng biết, gặp thầy ai cũng chúc mừng. Sau này tôi mới biết tỉ lệ đậu qua năm nhất (năm dự bị) giống như cá vượt vũ môn quan. Đúng là phải mừng như thế.

 

Anh C đã vượt qua năm đầu Văn Khoa, rồi kế tiếp vượt qua cuộc thi tuyển vào Đại học Sư Phạm, anh đã ra trường và đang chờ hoán chuyển nhiệm sở, hay đến nhà trọ chơi. Thấy ống sáo treo trên tường, anh lấy thổi. Anh thổi hay, kỉ thuật xoa vuốt nén hơi điêu luyện, tiếng sáo rít lên như tiếng chim hót trong bài Phụng Vũ. Tôi thán phục, nhờ anh chỉ vẽ thêm, anh vui lòng hướng dẫn và khuyên nên mua sáo gỗ thay cho cây sáo trúc này. Có lẽ thấy tôi hay tò mò thích học hỏi, nên đôi khi tiện thể, chở dạo quanh Sài Gòn để biết nó to lớn và sinh hoạt phố xá như thế nào. Một hôm anh kêu tôi lên xe, nói là đi đến cái “ổ chuột” xưa mà anh đã từng ở đó để gặp nhóm bạn bè. Chiếc Honda lòng vòng qua nhiều ngã, đến một con đường lớn. Con đường đẹp, rất đẹp, với hai hàng cây sao cổ thụ cao vút trên không, chia thành hai lối đi riêng, một cho xe hơi và một xe hai bánh. Anh quay lưng nói, tới rồi, đây là “Đại Học Xá Minh Mạng”. Cái tên mà nhiều lần tôi đã nghe, nhiều lần mong đến, và trước đây mấy tháng, mong muốn được ở đó.

Chúng tôi xuống xe, anh nói chuyện với người gác-dan rồi cả hai qua cổng chạy tiếp đoạn nữa đến dãy nhà bên tay phải, phòng trọ của anh ở tầng trệt. Một nhóm bạn bè anh ngồi trên nền xi măng, đang uống cà phê hút thuốc trò chuyện. Gặp nhau họ hỏi chuyện huyên thuyên, chuyện nhiệm sở của anh tới đâu, và họ nói nhiều về người bạn chung cùng quê, mà có người gọi là anh, có người gọi là thằng như anh C, có lẽ người này khá được mọi người chú ý. Trong phòng bề bộn, sách vở xếp chồng chất từng đống từng góc riêng của mỗi người. Nhìn họ ở trần trùng trục râu ria lởm chởm bập phà khói thuốc không ai nghĩ đó là những sinh viên năm cuối và có người đã tốt nghiệp. Bọn họ đã đánh mất hình tượng sinh viên mà tôi tưởng tượng. Họ khá lớn tuổi, cũng chừng độ tuổi hai lăm hai bảy như anh C, nói giọng Quảng Nam đặc sệt, nặng hơn anh C.

“Kí túc xá” nam này có đủ mọi thành phần Nam, Trung, Bắc. Nhưng phần lớn là dân miền Trung gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, mà người ta cho là có truyền thống chịu khó và hiếu học. Đi qua mấy phòng khác ở tầng trệt thấy giống như nhau, sách vở chất thành đống, nhìn thấy bốn đống là biết có bốn người trong phòng, thêm vào cái quạt máy xài chung, với lò nấu điện bằng dây lò xo, và ấm nước sôi, phin cà phê… Có phòng có chiếc giường, nhiều phòng chỉ trải bằng những chiếc chiếu cói đơn sơ. Cảm giác như trại lính dã chiến. Không biết mấy tầng trên lầu có khá hơn không? Tuy cảnh sinh hoạt tồi tàn, nhưng để xin được vào ở Đại Học Xá này trong thời gian theo đuổi đèn sách học tập không dễ. Ai cũng phải chờ đợi dài cổ để hi vọng may mắn có tên trong danh sách đăng kí phòng.

Nhìn mấy anh sinh hoạt gò bó trong căn phòng nhỏ nóng bức này mới thấy được ý chí học tập của các anh. Đa số các anh đều đi dạy kèm, hay đi làm thêm bên ngoài, để có thu nhập trang trải cuộc sống. Họ lớn tuổi nên biết tự lo cho mình không dựa vào gia đình, mà có lẽ muốn dựa cũng không được, cuộc sống đồng ruộng ở làng quê làm sao có đủ tiền trang trải chi phí cho các anh theo đuổi học vấn bốn năm năm nơi Sài Gòn phồn hoa đô hội này. Tuy cảnh sống gò bó thiếu thốn nhưng họ cũng có những sinh hoạt riêng tư vui nhộn, đáng nhớ. Họ kể, họ từng nhường phòng bỏ đi chơi suốt đêm để cho bạn mình tiếp khách. Người khách ấy không ai khác hơn là bạn gái anh ta. Làm sao đưa đàn bà con gái vào buổi tối qua cổng trạm xét được. Cái khó này ló cái khôn lỏi trong đầu. Đơn giản là chơi trò hóa trang. Biến giống cái thành giống đực rựa. Cô gái hóa trang thành một người đàn ông, mặc quần áo nam rộng thùng thình, mang kiếng bự, đội mũ sụp xuống cho ra vẻ ngầu, kè cặp nhau đi qua cổng trạm như có chút chếnh choáng hơi men như những sinh viên cuối tuần thường đi chơi tối bên ngoài rồi về kí túc xá lăn đùng ra ngủ, thế là xong, thế là trót lọt. Sáng ra, rời đi sớm thì không ai chú ý, không ai hay biết. Bọn họ thường vô tư giúp đỡ nhau như thế trong lúc hoạn nạn, ồ không, trong lúc hoan hỉ như thế.

Như để dạy thằng em thêm kinh nghiệm sống ở nơi đô thị về đêm. Khi thành phố đã lên đèn, và lúc gái ăn sương bắt đầu hành nghề ăn sương tối. Anh chở tôi đi chạy dọc theo mấy con đường gần Đại Học Xá, quanh ngã sáu An Dương Vương. Con đường dài có chỗ tối, chỗ sáng. Anh tấp vào từng cô gái đứng đường chỗ tối, mà hỏi giá, và ngã giá. Cô nào lỡ chịu giá, anh không thể từ chôi, anh đưa ra là ý mới là phải cho kiểm tra hàng tại chỗ, mới chịu. Tôi sợ anh làm điều kì quái, mắc cỡ, thúc anh bỏ đi. Anh cười ha hả rồ ga phóng xe chạy tiếp. Anh nói, có khi, có nhiều cô cho anh “khám điền thổ” ngay tại chỗ luôn. Thật ra anh chỉ đùa với tôi mà thôi. Như là một hình thức dạy bảo để hiểu cuộc sống về đêm ở Sài Gòn xa hoa sôi động này, những thứ dễ bào mòn tiêu ma ý chí của mấy cậu học trò tỉnh lẻ mà anh đã có kinh nghiệm từng bao nhiều năm ở đây. Anh nói, mày được lắm, tao sẽ dẫn mầy về quê giới thiệu với em gái tao. Ồ thì ra anh còn có cô em gái nhỏ ở quê. Không nhớ bao lâu sau, anh có dẫn anh bạn cùng quê da ngăm đen, áo bỏ thùng vẻ chững chạc đến nhà trọ tôi chơi, nhiều lần sau đó. Bấy giờ mới biết, anh chính là người bạn mà nhóm bọn họ hỏi thăm hôm trước. Anh này có máu nghệ sĩ, tới nhà là vớ cây đàn ngồi đàn hát. Anh là tác giả bản nhạc nổi tiếng được giới sinh viên học sinh ưa chuộng đương thời: Thu, hát cho người.

 

Đang ngồi trong quán cơm chiều gần nhà trọ, một anh chàng mặt mày trắng trẻo, dễ coi, mang kiếng cận, trông vẻ trí thức, đến hỏi tôi có phải dân miền Trung ở thành phố đó đó không. Tại sao ông biết? Nghe giọng là nhận ra, anh trả lời. Xa xứ mà gặp đồng hương thì vui rồi. Chuyện hợp nhau chúng tôi coi như bạn, anh thường đến nhà chơi, anh cùng tuổi với người bạn vừa nhập ngũ của tôi, nhưng đã xong năm thứ hai Đại học Khoa học, môn Toán Lý, MGP (Mathématiques Générales, Physique) cái môn được cho là khô khan nhất trong các môn. Anh giúp bà chủ quán cơm dọn dẹp hằng ngày để có chỗ trọ qua đêm, anh dạy kèm trẻ em, cả học sinh luyện thi tú tài, để mưu sinh. Anh tỏ ra sành sõi vùng quận một này, giới thiệu khu Đề Thám, Phạm Ngũ Lão, nơi người miền Trung vào buôn bán lưu trú ở đó, muốn gởi tin nhắn về quê nhà thì đến đó. Anh nói khi nào thuận tiện anh dẫn tôi xuống Đại học Khoa học xem cho biết trường và xem mặt cô hoa hậu của lớp. Và ngày ấy cũng đến. Giảng đường khoa học có kiến trúc đặc biệt, rộng lớn nhưng xiên dốc như rạp xi nê. Độ dốc khá lớn nên khoảng trống bên dưới sàn trệt người ta làm quán cà phê. Đứng từ xa nhìn cô gái hoa hậu anh nói, không gì đặc biệt, vóc dáng rất ư bình thường, nếu không nói là khó thu hút ánh mắt đàn ông con trai. Anh bạn nói đùa. Thật ra là trong lớp ngoài cô ấy ra đâu có ai là phái nữ. Cô ta được bầu hoa hậu là chính xác rồi, là phải đạo, khỏi bàn cãi. Hoa lạc giữa rừng gươm, chắc cô gái ấy là người may mắn trong hoàn cảnh đặc biệt ấy.

Anh là người mê sách, Phạm Công Thiện là người anh tôn sùng. Anh giới thiệu tôi vài tựa sách của ông, tôi nói đã có xem qua. Anh hứng chí lại giới thiệu thêm về Krishnamurti, về Nikos Kazantzakis… qua bản dịch và giới thiệu của PCT và khuyên xem cho bằng được. Và khi tôi xem xong. Những ý tưởng của họ làm tôi mê mẩn, làm mụ mị cái đầu óc một thời gian dài.

Bởi lẽ, những tác phẩm đó đã mở rộng tầm nhìn, mở rộng thế giới quan thêm một bước tiến xa nữa, mà lứa tuổi chúng tôi chưa hề nghĩ tới, chưa hề tưởng tượng được.  Ý tưởng của họ tiếp tục gợi cho tôi tìm hiểu về các tác giả khác như Hermann Hesse, Heidegger, Sartre, Nietzsche, Kiergaard, rồi quay về D T Suzuki, Muju (Shaseki-shu), Lão tử, Trang tử. Mỗi tác giả mở ra một chân trời mới mẻ, mở ra nhiều lối đi. Mà ta có thể chọn lựa lối đi theo bản tính hay sở thích riêng của mình. Những tác giả nào nghiền ngẫm không thủng, làm đầu óc rối rắm thì bỏ qua, không ép mình phải thấu hiểu. Chỉ tìm với những ý tưởng nào gây hứng thú kích thích mình mà thôi. Sao họ lại hấp dẫn thế? Vì họ viết rất lôi cuốn. Đọc tiểu thuyết của Hermann Hesse, của Sartre, của Andre Gide, của Kazantzakis cho thấy nhà văn có dáng dấp nhà triết học. Và thật, họ là những triết gia viết tiểu thuyết. Họ dùng văn để diễn tả tư tưởng triết học, và cũng cũng có thể là nhà triết học viết văn để diễn giải những điều muốn nói. Điều mà các tác phẩm văn chương trong nước chưa có được, chưa làm được, cho đến bây giờ vẫn thế.

Ở cái thời mà đọc “Nói với tuổi hai mươi” của Nhất Hạnh, cứ tưởng như ông sư này tâm sự riêng cho mình vậy. Đọc về thế giới nhất nguyên của đại sư Vivekânanda thấy thật thú vị, hợp với suy nghĩ của mình. “Tại sao có cuộc xung đột diễn ra khắp nơi khắp nơi giữa khoa học với tôn giáo? Những tôn giáo đều cồng kềnh hàng đống lời giải thích nguồn gốc tự bên ngoài: một thiên thần chiếm ngự mặt trời, một vị khác chiếm ngự mặt trăng và cứ như thế đến vô tận. Mỗi đổi thay là do một thần linh, cái điểm mọi người đều đồng ý là những nguyên nhân đó bao giờ cũng ở ngoài sự vật. Khoa học, trái lại, cốt tại chỗ tìm kiếm nguyên nhân của một sự vật ngay trong bản chất của sự vật. Cứ lần lần theo từng bước tiến hành mà khoa học giành với quỉ thần lời giải thích những hiện tượng tự nhiên” (Nhất Nguyên Thế Giới, Swami Vivekânanda, TTG)

Còn về Krishnamurti thì ông đưa ra những vấn đề bàn luận làm say mê mọi người, nhất là lớp trẻ. Ông đề cập đúng những cái họ khát khao muốn hiểu biết, muốn lí giải. Những đề mục ông đưa ra, hay giải đáp, đều có sức thu hút vô cùng. Ông nói: Hầu hết chúng ta đang tìm kiếm cái gì? Mỗi người chúng ta mong muốn cái gì? Đặc biệt trong thế giới hỗn loạn này, mọi người đều muốn tìm một thứ an bình nào đó, một thứ hạnh phúc nào đó, một nơi trú ẩn nào đó, vì thế chúng ta cần phải tìm cho ra chúng ta muốn tìm kiếm gì trên cuộc đời này, điều ấy dĩ nhiên vô cùng quan trọng, phải thế không?  Chúng ta cần phải biết đang đi tìm cái gì, chúng ta đang cố gắng khám phá ra điều gì. Có lẽ hầu hết chúng ta đang đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc nào đó, một thứ an bình nào đó; trong một thế giới hỗn loạn, xáo trộn, bất hòa, đầy chiến tranh phân ly, phân tán, tất cả chúng ta đều cần có một nơi trú ẩn để mà có thể tìm được một chút an bình nào đó.  Tôi nghĩ rằng đó là điều tất cả chúng ta, hầu hết tất cả chúng ta, muốn đạt tới. Vì thế chúng ta chạy tìm đuổi theo một người lãnh tụ này đến một người lãnh tụ khác, từ một tổ chức tôn giáo này đến một tổ chức tôn giáo khác, từ một bậc thầy này đến một bậc thầy khác.

Vậy thì có phải chúng ta đang tìm một thứ hạnh phúc hay là phải chăng chúng ta đang đi tìm một sự thỏa mãn nào đó để mong được hạnh phúc? Hạnh phúc và sự thỏa mãn hoàn toàn khác nhau. Các ngài có thể tìm hạnh phúc không? Có lẽ các ngài chỉ thấy thỏa mãn nhưng nhất định các ngài không bao giờ tìm ra hạnh phúc…

Chương về tình yêu, ông nói: “Đối với phần đông chúng ta, tình yêu là gì? Khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu một người nào đó, chúng ta muốn nói gì? Chúng ta muốn nói rằng chúng ta chiếm hữu người ấy. Từ sự chiếm hữu mới khởi phát lòng ghen tuông, bởi vì nếu tôi mất chàng ấy hay nàng ấy thì điều gì xảy ra? Tôi cảm thấy trống rỗng, mất mát; vì thế tôi hợp lệ hóa sự chiếm hữu bằng luật pháp; tôi ghì giữ chàng hoặc nàng. Vì sự ghì giữ, sự chiếm hữu ấy mới xuất hiện lòng ghen tuông, xuất hiện sự sợ hãi và vô số xung đột khởi phát từ sự chiếm hữu. Chắc chắn sự chiếm hữu ấy không phải là tình yêu, đúng chứ? ……………………….  Ngài thực sự yêu thương chỉ khi ngài không chiếm hữu, khi ngài không đố kỵ, không gian tham, khi ngài kính cẩn, khi ngài rộng lượng và từ bi.”

Ông nói về ý nghĩa của cuộc đời: “Tại sao ngài hỏi như vậy? Tại sao ngài bảo tôi cho ngài biết về ý nghĩa của cuộc đời, mục đích của cuộc sống? Đối với chúng ta, cuộc đời có nghĩa là gì ? Có phải đời sống có một ý nghĩa, một mục đích? Chẳng phải chính sự sống trong hiện tại này là mục đích của chính nó, ý nghĩa của chính nó rồi sao? Tại sao chúng ta lại muốn thêm nữa? Bởi vì chúng ta quá bất mãn với đời sống chúng ta, đời sống chúng ta quá trống rỗng, quá rẻ mạt, quá nhàm chán, làm đi làm lại, lặp đi lặp lại bao nhiêu việc như cũ, cho nên chúng ta muốn có một cái gì hơn nữa, một cái gì vượt hẳn lên trên những việc làm thông thường của chúng ta hiện nay. Bởi vì đời sống thường nhật của chúng ta quá rỗng tuếch, quá đần độn, quá vô nghĩa, quá chán chường, ngu xuẩn đến độ không thể chịu đựng nổi, cho nên chúng ta cho rằng cuộc đời phải có một ý nghĩa trọn vẹn hơn và đó là lý do cắt nghĩa tại sao ngài đặt câu hỏi này.  ………………………..  Ngài không phải tìm kiếm gì cả. Việc đó cũng giống như việc tìm kiếm tình yêu. Ngài có thể tìm thấy tình yêu bằng cách tìm kiếm nó? Tình yêu không thể vun vén rèn luyện được. Ngài sẽ chỉ tìm thấy tình yêu trong tương giao mà thôi, chứ không phải bên ngoài tương giao, và chính vì chúng ta không có tình yêu, cho nên chúng ta mới muốn có một mục đích trong đời sống. Ở đâu có tình yêu, tức là sự vĩnh cửu tự tính, thì ở đó không có sự đi tìm Thượng đế, bởi vì tình yêu là Thượng đế.”

Lúc ấy tôi lại say mê những ý tưởng và những lý lẽ như vậy, có lẽ đáp ứng nhu cầu khát khao muốn tìm hiểu thế giới bên ngoài, khác xa và mới lạ với những suy nghĩ thường tình của mình? Những ý tưởng ấy kích thích đầu óc tôi. Và tôi cũng thường hay la cà góc đường Lê Lợi, Công Lý, kéo dài đến Huỳnh Thúc Kháng, đối diện xéo nhà sách Khai Trí (Fahasa bây giờ). Đây là khu chợ trời bán sách “sôn”, sách cũ và mới, cả sách quí hiếm, với giá cả phù hợp cho những chiếc ví lép, được trưng bày thành đống, trên tấm bạt nilon vài thước vuông hai bên lề đường. Con đường đi dọc hai bên vỉa hè này có thể gọi là “con đường tư tưởng”. Tôi đặt tên như thế.

Cái thời mà những lý thuyết, những chủ nghĩa, những hiện tượng, những tư tưởng mới nảy trên thế giới, đều được người ta du nhập, khai thác và phổ biến vào nền sinh hoạt tư tưởng và văn chương bản địa rồi in thành sách. Cái thời buổi đầu tiếp nhận và hội nhập với văn học thế giới. Những cuốn sách đủ loại kiểu như “Hình nhi thượng, hình nhi hạ” trong Nho giáo mà tác giả là những nhà nghiên cứu hay những giáo sư có học vấn uyên thâm đều nằm ở đây. Tất cả đều bày biện ra dọc hai bên vỉa hè đường phố lở lói, trên những tấm bạt cũ rách mòn, trong những trang sách phơi khô với nắng gió. Và trong dòng người qua lại ngược xuôi, ở đô thị đông đúc này. Những “Socrates” hay những “Khổng Tử” đều có mặt ở đây. Những “Victor Hugo” hay “Leo Tolstoy” đang nằm phơi nắng mốc meo ngửa mặt nhìn trời mà mong chờ người ta rước đi. Tôi mua một lúc ba quyển “Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng” của Krishnamurti, một để tặng anh bạn ở quê, một cho mình, và một để tặng anh bạn mới thân khác. Nghĩ lại thật buồn cười. Cái điều mình thích cứ ngỡ ai cũng thích như mình, cái điều mình hiểu cứ nghĩ đơn giản người ta cũng hiểu như mình. Cái điều mình cần biết cứ nghĩ ai cũng cần biết như mình. Thật là ngô nghê, thật trẻ con. Tâm trí con người ta luôn thay đổi. Mỗi thời điểm con người có nhu cầu khác nhau, có nhận xét và đánh giá khác nhau. Với lứa tuổi này, tư tưởng hay nhận định đó là đúng. Có thể mười lăm năm hay hai mươi năm sau, nó trở thành sai. Và rồi mười lăm, hai mươi năm sau nữa, thấy nó không hẳn là sai mà rất có lý. Cái đó là do trải nghiệm hấp thụ được trong cuộc sống thực tại mà phán xét.

 

Con đường từ nhà chạy xe lui tới đến Văn Khoa thì xa, nhưng con đường đến khu vỉa hè đường sách đó khá gần, nên hầu như khi thuận tiện là tôi đến, vui cũng đến, buồn cũng đến, bởi nó giúp người ta giảm cái buồn hay tăng niềm vui khi thoáng nhìn những khuôn mặt đang ẩn hiện nét đăm chiêu trên trang sách. Con đường coi như là con đường rẽ, con đường tạo hình cho thế giới tư duy cho mỗi khách vãng lai tới đó, ngoài con đường thường xuyên đến trường lớp. Nhưng, những lối đi ấy nay đã trở thành dĩ vãng. Con đường xưa ta đi, bây giờ chỉ còn là những kỉ niệm đời người.

 

Leave a Reply

Your email address will not be published.