Bình Định

Tác giả: Nguyễn Lương Nho

Ai bình?

Ai định?

Ai vì ai mà lạc nẻo người về? (!)

Thuở mở cõi

Gươm thiêng kiến lập

Dòng Kôn giang cuồn cuộn về đông

Hỡi người con gái “Trữ la sông”

Nghiêng nghiêng tóc xõa

Bún Song Thằn (1)

Miệng cười rớt ngọc

Anh hùng một thuở phải dừng chân

Khí hạo nhiên hun đúc

Nam phương chọc trời đá dựng Hòn Ông (2)

Trà Thạch trận- với bao huyền thoại

Lòng muôn thuở

Mà trời riêng một cõi

Định giang sơn từ thuở hồng hoang

Hòn Bà (3) phương Bắc

Nghĩa phu thê bền chặt vuông tròn

Với Vọng Phu Thạch (4)

Dấu ấn ngàn đời

Lòng dạ sắc son

Người đi không trở lại

Hòn đá không ngoảnh đầu

Thông điệp nào gởi nghìn sau

Mà nay con cháu

Nặng, đau thế tình!

Nào ai nhục?

Nào ai vinh?

Ai định bá?

Ai đồ vương?

Nơi đây máu đẫm chiến trường

Hồn trăng Thị Nại

Còn vương vấn hoài!

Ta là kẻ lạc loài hậu thế

Lớn lên nơi xứ sở Hoàng đế thành (5)

Với Đồ Bàn thành (6)- Vương triều rực rỡ

Với Bình định thành(7)- mấy thuở phế hung

Nơi anh hùng (8)- một thời vang bóng

Đã xóa tan lệ tiến công “người vàng” (9)

Xóa cái nhục cho tổ quốc giang sơn

Người đã đứng trên tột đỉnh vinh quang

Với chiến tích xưa sau không ai sánh

Tiếc thay! Mộng lớn không thành

Nợ đời Lưỡng Quảng phải đành phôi phai (10)

Cảm người xưa

Nỗi đau tá!

Đâu rồi non nước ông cha tài bồi!

Cũng có người bảo”

Cũng tại Cau Biền đã đoạn cuộc đế vương

Làm cho huynh đệ tương tàn

Xui dòng lịch sử xô ngang lệch đời!

Nhưng,

Tất cả đã rơi vào quên lãng!

Những thành trì, cung miếu

Nhưng triều đại thành phế tích, điêu tàn!

Chỉ còn

Những ngọn tháp Chàm ngạo nghễ với thời gian

Và những câu hát của cụ Đào (11)

Đi vào lòng người mãi mãi

“Gẫm mơ màng thân trước thân sau”

Ta chạnh đau

Nỗi đau của người thuở trước!

Nào ai được!

Nào ai thua!

Có ích gì…

Trước một hũ mắm cua cũng nặng tình người viễn xứ

Ngọn gió nam non cũng mang lời tình tự

Đi hun đúc nên những thục nữ, anh hùng

Được chắt lọc từ những đau khổ chung

Của nhân loại từ buổi hừng đông sáng thế!

Ai đã hơn một lần xa quê!

Dù ở nơi đâu

Trên đất Mỹ hay trời Âu

Chợt nghe một tiếng ‘Nẫu”

Phải giật mình

Thoáng chốc hồn quê sực tỉnh

Ta là dân xứ Bình

Ai bình?

Ai định?

Ai vì ai mà lạc nẽo người về? (!)

Con đường nào đã dẫn đến mê cung? (!)

Quê hương cam chịu cảnh nhục hình!

Lòng dân rướm máu!

Mang Bình Định (12) tên!!!

Và từ đó

Oan khiên chồng chất!

Bao hận thù trút xuống một miền đất uy linh!

Anh hùng thành kẻ bại binh!

Tây Sơn lừng lẫy

Cùng triều đình ngụy thôi!

Trang sử lịch tha hồ bôi bác

Kẻ tội đồ thành đấng minh vương!

Chao ôi! Thật giả khôn lường!

Ngàn sau con cháu biết phương hướng nào? (!)

Dân bình định bao đời đày đọa

Từ cha ông đến thảm họa cháu con!

Ca dao truyền miệng hãy còn

Xót xa vận nước, héo hon phận người!

“Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay kình,

Bình Định hay co, Thừa Thiên trích kết” !

Đau đớn đến là cùng!

Uất hận đến là cùng!

Nhưng, lòng dân nơi đây

Vẫn rộng mở, khoan dung

Cho dù anh là người viễn xứ

Đâu có lạ gì Xuân Diệu, Bích Khê, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,…

Họ đã sống và thành danh nhờ mảnh đất này

Để thấy rằng khí thiêng hội tụ nơi đây

Quả là quê hương của đất Võ, trời Văn

Nơi phát tích những anh tài xuất chúng

Lớp lớp kế thừa…

Nào Tây Sơn tam Kiệt

Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ

Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng

Những Ngô Tùng Châu, Đặng Đức Siêu, Lê Đại Cang…

Đào Tấn, Đào Phan Duân, Hồ Sĩ Tạo, Nguyễn Diêu…

Nào Tăng Bạt Hổ, Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Trung Trực…

Những Quách Tấn, Yến Lan…

Đâu phải bỗng dung triều Nguyễn Gia Miêu có mối thù bất cộng đái thiên với miền đất này mà đành phải mở trường thi Hương vào thời Tự Đức thứ 3 (1850) đại diện cho các tỉnh Nam Trung bộ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa). Điều đó nói lên tầm quan trọng của xứ sở nơi này.

Nơi đây tôi xin mở ngoặc để lễ phép thưa rằng:

Quê hương tôi có văn hiến từ lâu. Đâu phải cầm

“ông đồ xứ Nghệ

“vượt đèo Ngang

“mang khan gọi đỏ

“tìm nơi cần chữ”

Như ai kia đã lếu láo để thỏa mãn mặc cảm của một kẻ tha phương cầu thực!

Chiều nay đứng trên cầu Nhơn Hội trông về thành phố rực đèn

Những dòng người ngựa xe tấp nập đua chen

Nhìn xa xa biển rộng nhấp nhô…

Quả là sóng xô lớp lớp vùi kim cổ

Lòng tôi mơ hồ cảm nhận

Nghiên son, núi bút nay đâu (13)

Hồn thiêng non nước một màu khói sương

Hà Thanh, Tháp cổ mây vương

Bụi hồng gió cuốn miên trường về đâu…? (!)

Nguyễn Lương Nho.

  1. Bún Song Thằn là một đặc sản ở Bình Định thuộc xã An Thái huyện An Nhơn làm từ đậu xanh rất ngon. Do hai vị thần Thổ thần và Hỏa thần ứng mộng chỉ cách làm.
  2. Hòn Ong còn gọi là núi Ông Tượng phía nam Bình Định thuộc xã Vân Canh giáp ranh với Phú Yên
  3. Hòn Bà còn gọi là núi Bà thuộc huyện Phù Cát ở bắc Bình Định
  4. Đá Vọng Phu trên đỉnh chop Vung Núi Bà
  5. Hoàng Đế thành thuộc xã Nhơn Hậu, Đập Đá, An Nhơn, Bình Định triều đại Tây Sơn xây dựng trên cơ sở thành Đồ Bàn vương quốc Champa để lại, chính thức gọi là thành Hoàng Đế năm 1778
  6. Thành Đồ Bàn hay Vijaya còn gọi là thành Cổ Chà Bàn là kinh đô của người Dega thuộc Champa nằm trên địa phận xã Nhơn Hậu, Đập Đá
  7. Tòa Thành Cổ. Sau khi thắng Tây Sơn Gia Long cho xây dựng năm 1814 nay thuộc phường Bình Định, trung tâm thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định
  8. Vua Quang Trung- Nguyễn Huệ
  9. Liễu Thăng bị phục binh Lê Sát giết ở ải Chi Lăng. Sau khi giành độc lập Lê Lợi muốn giao hảo êm đẹp với nhà Minh nên chấp nhận cống người vàng thế thân Liễu Thăng năm Tuyên Đắc thứ 4 (1429). Lệ này kéo dài mãi đến khi vua Quang Trung đại thắng quân Thanh ngài đã hủy bỏ lệ cống người vàng được vua Càn Long chấp nhận
  10. Vua Quang Trung sẽ đòi lại Lưỡng Quảng vào thời Triệu Đà nhưng việc chưa thành thì ngài đã mất
  11. Tuồng của Đào Tấn trong vở Nguyệt Cô hóa cáo
  12. Sau khi Gia Long tiêu diệt Tây Sơn đã đặt miền đát này là Bình Định- ý là đã bình định xong Tây Sơn
  13. Núi một tại Tháp Đôi Quy Nhơn cạnh đầm Thị Nại Hòn Son còn gọi đèo Son cạnh đầm Cừu Tân (Cầu Đôi) mỗi lần mưa, nước màu son chảy xuống Đầm Thị Nại. Đầm Thị Nại xem như cái nghiên chứa mực, Tất cả đã thành phế tích chỉ còn dấu vết! (đoạn cuộc)

Leave a Reply

Your email address will not be published.