Truyện kí của Nhà Giáo Nguyễn Đoan Tuyết
Câu chuyện bắt đầu từ những món quà nhỏ mà tôi đã mang từ Phố Núi ra tận một vùng quê xa xôi ở miền Bắc thuộc ngoại thành Hà nội, một chuyến đi vì nghĩa tình hơn là đi tham quan du lịch. Đây cũng là lần đầu tiên tôi được đặt chân đến vùng đất nghìn năm văn hiến này và cũng là lần đầu được biết mặt một bà bác dâu -theo cách gọi của người miền Trung quê tôi đối với bà vợ của ông bác do ông đã làm rể ở đất này – còn bà bác thì có lí do rất riêng để không theo về quê chồng như phần đông các bà vợ có chồng tập kết ra Bắc.
Sau niềm vui hội ngộ ban đầu, nhìn những món quà của tôi, bà bác nhỏ nhẹ bảo:
– Cà phê cho các anh chị thì bác xin, còn tấm vải này thì…
Bà đưa tay vuốt nhẹ lên mặt vải gấm màu vàng đồng mà tôi đã cất công đi chọn để biếu bà may áo – rồi vẫn giọng nói ngập ngừng, bà tiếp lời:
– Cháu đã cho thì bác cũng xin nhưng…nói cháu đừng buồn, màu này ở đây không ai được mặc cả.
Tôi tròn mắt lên vì ngạc nhiên:
– Vì sao vậy hở bác?
– Vì đây là màu dành riêng cho bà chúa của làng, từ xưa đến nay dân làng không ai được mặc cháu ạ.
Tôi thầm nghĩ hẳn là bà chúa ở đây phải dính dáng đến một vương triều nào đó và thế là trong tôi đã có một dấu hỏi, một bí mật về “bà chúa làng” mà tôi nhất định sẽ khám phá cho bằng được mới thôi.
Tôi thả bộ dọc theo bờ đê sông Hồng, phóng tầm mắt về phía bờ bên kia còn chìm khuất trong sương sớm và liên tưởng đến một đoạn văn tả cảnh- nếu tôi nhớ không lầm là trong cuốn Đôi Bạn của Nhất Linh, một trong những con chim đầu đàn của Tự Lực Văn Đoàn, quyển tiểu thuyết mà tôi đã mơ mộng suốt một thời thiếu nữ. Tôi chỉ nhớ mang máng “…Tôi đến một nơi gọi là Từ Liêm, xa xa một dòng sông … giữa đôi bờ cát trắng…”. Lẽ nào quá khứ đã sống lại lần nữa và không biết nơi tôi đứng đây có gần với chỗ ngắm cảnh của ông nhà văn cách đây gần một thế kỉ hay không, chỉ biết chắc chắn dòng nước đang chảy kia đâu còn là dòng nước của năm xưa mà cảnh và người cũng đã đổi thay khác trước. Con sông lịch sử đã từng là nấm mồ vùi chôn bao xác giặc xâm lăng từ phương Bắc, cả một vùng đồng bằng thuộc lưu vực của nó được xem như cái nôi của văn hóa Việt chính là đây !
Tôi vẫn đi men theo bờ đê-trên mặt đê là con đường quốc lộ , đi qua nhiều cổng làng được xây rất cổ kính, tên làng thường chỉ khắc bằng chữ Hán (hay chữ Nôm). Một số ít làng làm lại cổng mới nên tên làng vừa là chữ quốc ngữ ở hàng trên, lại thêm chữ Hán hàng dưới, trong đó có làng Yên Nội thuộc huyện Từ Liêm– quê vợ của ông bác tôi.
Theo lời những bậc cao niên và hiểu biết ở đây (*) thì thôn Yên Nội và Cổ Nhuế ra đời cách nay gần một nghìn năm, do công lao của công chúa Trần Thị Túc Trinh- con gái thứ tư của vua Trần Thánh Tông. Công chúa đã từ bỏ cuộc sống vàng son ở kinh thành Thăng Long, vâng theo chiếu dụ của vua cha để ra phía tây bắc còn hoang hóa, chiêu tập dân nghèo, cấp vốn cho họ mua trâu bò, dựng nhà cửa, khai khẩn đất hoang lập ruộng vườn, làng mạc. Dân làng ghi nhớ công ơn nên đã lập đền thờ hàng năm đến ngày 8-2 ÂL đều có ngày giỗ bà rất trang trọng. Dân làng cúng bà bằng cơm gạo xay với muối vừng để tưởng nhớ một bà công chúa sống cuộc đời dân dã.
Tôi miên man nghĩ đến lẽ vô thường của tạo hóa và sự biến đổi của thời gian. Sau gần một ngàn năm , bây giờ nét cổ kính còn sót lại ở ngôi làng này chỉ còn ở ngôi đền thờ “Bà Chúa làng “ nhưng chưa hẳn đây là ngôi đền đã có từ đầu mà có thể đã được trùng tu, làm lại sau những biến thiên trong lịch sử. Ngoài ngôi đền ra, còn có ngôi chùa cổ Thánh Quang, tương truyền là nơi tu hành cuối đời của bà Túc Trinh và đã được tu sửa nhiều lần . Nét cổ xưa còn lại rõ nhất là quả chuông đồng có khắc di chúc của bà và bức tượng của chính bà ở trong chùa ấy. Còn lại là những đổi mới nhanh chóng của một làng vùng ngoại thành vì hầu hết nhà cửa ở đây đều thi nhau mọc lên theo kiểu biệt thự cao tầng- chả là dân làng được khoản tiền lớn đền bù đất cho một dự án khu công nghệ cao ở đây. Không còn tìm đâu ra bờ ao, giếng nước, lũy tre, …Tất cả đã lùi vào quá khứ!
Thế là rất may mắn, tôi đã tìm được câu trả lời trong một thời gian ngắn nhất là tại sao dân làng ở đây từ xưa đến nay không ai được phép mặc trang phục màu vàng ( dành cho vua chúa ) – phải chăng là để tỏ lòng kính trọng đối với một Công chúa có công với làng. “Lệ làng” đã ăn sâu thành nếp tự lâu đời rồi, nếu bây giờ ai mà phá lệ, cứ ngang nhiên làm theo ý của mình, chắc là sẽ chịu lắm điều dị nghị, dèm pha và rất có thể bị người làng xa lánh.
Nhưng “ lệ làng” sau hàng ngàn năm đâu phải chỉ có thế, nhất là khi có những “lệ” đã trở thành phong tục tập quán ăn sâu tận trong nếp nghĩ lâu đời không phải chỉ một vài làng mà cả một vùng rộng lớn, cả miền Bắc nước ta. Đó là tục lệ cải táng mộ cho người thân và đó cũng là lí do để tôi có mặt ở ngôi làng không thể nào quên này.
Cuộc hôn nhân “tình Bắc duyên Nam” của bác tôi cũng là một câu chuyện đáng nhớ. Hai người đã gặp nhau tại bệnh viện Bạch Mai Hà Nội khi ông bác bị tai nạn gãy ba chiếc xương sườn, còn bà thì đi chăm mẹ đau ốm ở đây. Lúc này ông bác đang rơi vào trạng thái đau buồn thất vọng về bà bác ở quê nhà qua Hội đồng hương đưa tin (có lẽ đã không vượt qua được nỗi cô đơn lẻ bóng khi phải nuôi con đằng đẵng hàng chục năm trời nên bà đã trót có quan hệ với người đàn ông khác). Với tâm trạng ấy cộng với nằm viện dài ngày mà không có người thân bên cạnh nên ông bác cũng dễ dàng đón nhận sự giúp đỡ ân cần, dịu dàng của một người phụ nữ. Thế là nên duyên.
Nói thế nhưng hai người đã phải vượt qua rất nhiều trở ngại ở cả hai phía để đến được với nhau. Mặc dù đã có hiểu biết từ trước nhưng phải đến khi tiếp xúc với con người bằng xương bằng thịt tôi mới thật sự hiểu vì sao ông bác đã đánh đổi mọi thứ để có được bà. Mặc cho Hội đồng hương can ngăn, mặc cho bà mẹ nuôi ở nơi đang công tác mai mối cho một đám khác, ông chịu kiểm điểm nặng nề rồi bị kỉ luật khai trừ khỏi Đảng khi đã kết hôn với một người thuộc thành phần đã từng bị đấu tố trong cuộc cải cách ruộng đất , mang một “vết đen” trong lí lịch. Còn bà , khi tôi hỏi tại sao vẫn lấy bác tôi khi ông bị buộc về hưu non, cuộc đời gần như là tay trắng thì bà cười rồi bảo:
– Ông ấy đã vì tôi mà ra nông nỗi ấy thì tôi còn sợ gì. Cái khó của tôi là sự ngăn cản của gia đình, họ hàng, ai cũng bảo sau này khi hòa bình ông ấy lại về miền Nam với gia đình trong ấy thì có theo về không- hay lại phải nuôi con một mình. Nhưng đã quyết rồi thì tôi chấp nhận hết.
Bao giờ bà cũng nói năng rất từ tốn, nhỏ nhẹ, đâu ra đấy, đôi lúc còn văn hoa tao nhã nữa là khác. Bà vẫn giữ được cái cốt cách vốn có cho dù cuộc đời trải bao thăng trầm, phải lam lũ vất vả kiếm sống cũng không làm cho mai một đi. Bà có đôi mắt to đen, ánh nhìn hiền từ, sâu thẳm, sóng mũi thanh nhẹ, nước da trắng mà thời gian vẫn chưa thể xóa mờ . Khi bà gội đầu, mái tóc vẫn còn đen nhiều chảy dài trên lưng làm chúng tôi không ngớt trầm trồ. Ngần ấy đủ phác họa một chân dung không đến nỗi nào của bà khi còn trẻ . Đối với bà con phía chồng từ trong Nam ra bà đối xử rất chân tình nồng hậu, giản dị mà sâu sắc. Dù chưa về quê chồng lần nào (vì ngại có bà vợ trước) nhưng bà vẫn không quên ân nghĩa đạo lí ( khi có những cái tang hay giỗ chạp lớn ). Khi còn sống, ông bác có lần viết thư cho một người chú ở quê bày tỏ ý nguyện muốn về yên nghỉ nơi khu mộ của dòng tộc, được nằm gần ông bà tổ tiên nơi bản quán. Đó là cái khổ của một cảnh hai quê mà ông đã từng rất khó xử, day dứt khôn nguôi trong suốt những năm cuối đời. Nhưng cái tình của ông cứ mãi quyến luyến ở nơi phương Bắc cho đến khi ông qua đời đột ngột và được an táng ở đây .Bà bác ngoài này còn bảo ông từng hứa với bà rằng hai người đã khó khăn lắm mới lấy được nhau nên lúc chết cũng không thể chia lìa. Còn đối với bà vợ trước của ông trong này thì dù sao ông bà vẫn còn cái nghĩa trong mối quan hệ với con cháu. Tuy nhiên bà lại hay hờn trách ông dù chính bà cũng có lỗi , vì sau lần lỡ bước sa chân ấy đã ở vậy nuôi hai con khôn lớn nên người, lại làm tròn bổn phận dâu con . Ôi, chiến tranh đã đi qua nhưng hệ lụy của nó vẫn còn tiếp diễn và không có cái khổ nào giống cái khổ nào !
***
Thôn Yên Nội đang chìm dần vào giấc ngủ.
Nhưng đêm nay có một vài gia đình vẫn chong đèn thao thức để chờ đến giờ theo kế hoạch.Trong căn nhà rộng của anh con trai cả của bà bác ngoài này,những người bà con từ trong Nam ra cứ chạy lên chạy xuống giữa các tầng lầu để chia sẻ tâm trạng. Có lẽ với dân làng, chuyện này đã quá bình thường, nhưng với những người như chúng tôi thì không bình thường một chút nào. Cả nhà bác tôi đang rộn ràng chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Người anh thứ ba và thứ tư con bác được cho là hợp tuổi để trực tiếp làm công việc gọi là bảo tồn hài cốt của người cha quá cố.Anh con trai cả của ông bác-con của bà vợ trước thì cứ quanh quẩn bên anh ba và anh tư, có lẽ muốn truyền thêm ý chí và tình cảm cho hai người em trước lúc lên đường. Tất cả đã sẵn sàng.
Đến 12 giờ khuya, đoàn người bắt đầu rời khỏi nhà , kéo thành một hàng dài vừa đi bộ, vừa đi xe máy với các dụng cụ, đồ đạc lỉnh kỉnh hướng về phía nghĩa trang. Chị X-con dâu cả của bà bác-sau mấy ngày tất bật chuyện cỗ bàn khách khứa đến phờ phạc cả người vậy mà vẫn thoăn thoắt gánh một đôi thùng nước dấn lên phía trước. Người thì chở theo một can lớn đựng rượu pha hương thơm gì đó mà tôi không biết. Và, để “thay áo quan”, nhà đã chuẩn bị đến hai lớp: lớp ” áo” trong bằng đất nung rất tốt, lớp ngoài bằng một quan tài hình hộp chữ nhật được làm bằng loại gỗ cực tốt , nghe nói hàng trăm năm cũng không suy siểng và chỉ dài bằng một nửa quan tài bình thường. Đoàn người lặng lẽ nối nhau đi qua nhiều ngã ba, ngã tư, hết quẹo phải sang quẹo trái. Đi tới đâu tiếng chó sủa vang đến đó, phá tan màn đêm tĩnh mịch nhưng không làm dịu đi nỗi lo lắng, hồi hộp xen lẫn cả sợ hãi đang dâng lên trong lòng những người như tôi. Vì trước khi đi cô em họ đã chỉ cho tôi thấy những con dao trong số dụng cụ phải mang theo…
Đoàn người đi vòng vèo một hồi lâu rồi cũng ra đến rìa làng sau khi đi qua ngôi chùa cổ Thánh Quang. Không khí lúc này nghe lành lạnh khi con đường băng qua những cánh đồng trồng rau, trồng hoa với đèn điện thắp sáng từng hàng thẳng tắp ở những loài hoa cần kích thích cho nở sớm. Quanh co một hồi nữa là đến một trạm điện cao thế. Một tấm bảng cho biết “Nghĩa trang thôn Yên nội” đây rồi. Lần đầu tiên trong đời vào đêm hôm khuya khoắt tôi đi vào “thế giới của sự im lặng tuyệt đối”. Nghĩa trang chia làm hai khu vực rõ rệt, một bên là khu mộ đã được cải táng, xây nhỏ lại cùng một kiểu gần như giống nhau, bên kia là khu mộ chưa cải táng mà đoàn người đang đi tới. Ẩn hiện theo hai bên lối đi đầy cỏ dại là những ngôi mộ chỉ còn lại hốc huyệt sâu mà người ta chưa (hoặc không) lấp đi, hoặc có mộ đã đào sâu cho tới quan tài có mắc sẵn bóng điện, đang chờ tới giờ G trong đêm nay giống như chúng tôi. Một cảm giác sợ hãi xuyên suốt qua người tôi nhưng tôi không thể quay lại được nữa. Cuối cùng thì đoàn người cũng dừng lại. Tất cả vây quanh trên bờ ngôi mộ ông bác đã được đào sâu từ 2g chiều hôm trước cho đến tận đáy, sâu đến 2m5 có nước xăm xắp, cạy nắp áo quan hơi lệch qua cho bay hơi đi, đợi đúng 1g đêm nay là mở hẳn ra để lấy hài cốt và phải làm sao cho kịp giờ.( ngày giờ đều do các ông thầy phán định)
Thời gian nặng nề trôi qua. Một vài người lấy điện thoại ra xem giờ.
Tôi đã kịp nhìn thấy hai ông anh đứng dưới huyệt, hai bên quan tài . Lúc này đây, trong tôi lại dâng lên một niềm thương cảm lẫn thán phục đối với hai anh, họ đã vượt lên chính mình để nhận lấy trách nhiệm, đã phải gồng mình lên trước sức nặng của một phong tục tập quán tự nghìn năm còn lại (**)- sức nặng của một quan niệm về đạo hiếu và cũng là của lẽ sống chết, mất còn trong cõi đời này.
Tôi lùi lại đằng sau mọi người -cố trấn tỉnh .
Tất cả nín thở chờ đợi.
Bỗng nhiên tôi nghe nhiều tiếng khóc cùng òa lên một lúc. Nắp quan tài đã được mở ra.
Như có một sức lực vô hình đẩy tôi lên phía trước, chen vai mọi người, tôi thoáng thấy một hình hài sát đáy áo quan nằm trong một lớp áo đỏ ( áo mà bác đã mặc ngày mừng thọ 80 tuổi ). Tôi lùi lại rất nhanh, không đủ can đảm để xem tiếp. Trên bờ, cậu em trai kế tôi và một chị con bà cô tôi cùng bấm máy liên tiếp- có lẽ do làm nghề y nên chị rất mạnh dạn theo dõi từ đầu đến cuối. Trong một trạng thái như người đang mộng du, tôi chỉ nghe loáng thoáng tiếng một vị trưởng lão có uy tín ở đây hướng dẫn hai ông anh các thao tác cần thiết để đưa từng phần xương lên cho hai người đang chờ trên bờ, một người rửa trước trong nước, một người rửa sau bằng rượu, sau đó mới đặt vào cẩn thận trong lớp áo quan bằng đất nung gọi là tiểu sành. Vậy là nỗi đau mất mát cách đây 7 năm trời tưởng đã nguôi ngoai thì bây giờ sống lại, còn đau xót hơn khi phải tận mắt chứng kiến hình ảnh của người thân chỉ còn lại nắm xương tàn kì dị. Rời rạc- vụn vỡ của sự hủy hoại . Biến đổi và tang thương. Xót xa đến tột cùng. Tiếng khóc chỉ là bộc phát nhất thời nhưng có lẽ nỗi ám ảnh sẽ còn mang theo suốt cả cuộc đời. Đó là chưa nói không phải dùng đến các con dao để có thể lấy được hài cốt vì nghe kể có người hoặc có chỗ đất khi chôn rất khó phân hủy tuy cũng sau ngần ấy năm. Chiếc quan tài đưa lên còn nguyên vẹn nhưng sau sẽ được đốt đi.
Cuối cùng thì những gì cần giữ lại của ông bác tôi cũng đã nằm gọn trong hai lớp áo quan mới, được chuyển ngay sang khu mộ đã cải táng. Đúng 3g trong đêm là hạ huyệt (đã xây sẵn một cái huyệt mộ sâu khoảng gần 1m3) Tôi thấy một cái huyệt đã xây sẵn y như vậy bên cạnh để dành cho bà bác sau này. Sau đó, xây lên ngôi mộ với tấm bia đá là hoàn tất.
Tôi bần thần với ý nghĩ lẽ nào gần một ngàn năm qua kể từ lúc ngôi làng này ra đời mà chỉ còn có ngần ấy ngôi mộ thôi sao ? Biết bao nấm mồ đã bị xóa nhòa theo thời gian không còn để lại chút dấu vết nào trên mặt đất , bởi nếu không thì đã không còn chỗ cho người đời sau sinh sống và lại xây lên những nấm mồ mới như hôm nay. Vì vậy mới có trường hợp trước đây, khi san ủi để làm thủy lợi trên cánh đồng huyện Phù Cát- Bình Định, người dân phát hiện có một quan tài lạ bằng gỗ lim trong một ngôi mộ cổ.Qua những vật tùy táng, các nhà khảo cổ đã cho biết đó là một người phụ nữ thuộc hoàng tộc của nhà Tây Sơn ( Nhà Bảo Tàng Quang Trung huyện Tây sơn đã từng trưng bày những hiện vật này cho dân chúng xem).Qua những cuộc thay chủ đổi ngôi, đâu chỉ có phần mộ của người dân thường mà cả những người giàu có hay quý tộc cũng sẽ chôn vùi theo năm tháng và đi vào quên lãng. Trong dòng thời gian vô tận thì một ngàn năm cũng chỉ qua như một cái chớp mắt , tất cả rồi cũng sẽ trở về với cát bụi hư vô !
***
Sau một đêm gần như thức trắng, cả nhà bác tôi lại bận rộn với việc chuẩn bị làm cỗ bàn để mời bà con dân làng. Vì làng này rất đông dân, và cũng có thể do mối quan hệ của nhà bác- mà cần chuẩn bị đến 70 mâm, mỗi mâm 6 người ( đó là chưa kể ngày hôm trước đã làm 30 mâm cỗ để mời họ hàng thân thuộc rồi ). Tục lệ của làng xưa nay vẫn thế. Tôi thấy khi đi dự cỗ, có người còn mang theo bó nhang và phong bì giống như lệ thường đi phúng điếu cho một đám tang. Vậy là có đến hai lần ăn cỗ và hai lần mang phong bì ( vì khi nhà có người qua đời thì tang gia phải lo làm cỗ bàn linh đình để mời những ai đến viếng ) Đúng là “phép vua thua lệ làng” mà bây giờ chính quyền cũng bó tay. Dù ăn uống không nhiều nhưng cỗ bàn có thừa ra ê hề thì mới không bị chê cười. Tôi thở dài khi biết không những các anh chị tôi mà đa số bà con ở đây đã phải chạy vạy tiền ăn học cho con em không dễ dàng gì từ nguồn thu nhập trồng hoa, rau củ và buôn bán nhỏ. Cứ nhìn vài ngôi nhà còn sót lại của người dân khi chưa nhận được tiền đền bù đất thì đủ hiểu.
Đằng sau bộ mặt khang trang với nhiều nhà cao tầng của một ngôi làng cổ đã được đô thị hóa còn có cái hồn- nếp nghĩ xưa cũ vẫn còn vọng lại đâu đây.
Tháng 11-2011
___________________________________________
(*) có tham khảo thêm
(**) tục cải táng bắt nguồn từ thời Bắc thuộc khi quan lại, thương lái Trung quốc chết tại Nam mà gia đình muốn đem xương cốt về chính quốc.Có lẽ do thấy nếu cải táng sẽ bảo vệ được hài cốt lâu bền hơn nên về sau thành lệ- phong tục ở Nam (tài liệu internet).