Tác giả: Thiếu Khanh
Sau khi dịch cuốn sách The Birth of Việt Nam của Giáo sư Tiến sĩ Sử học Keith Weller Taylor (Công ty Văn Hóa Truyền Thông Nhã Nam và nxb Dân Trí xuất bản tháng 3/2020, với nhan đề Việt Nam Thời Dựng Nước), tôi viết thêm một bài cảm nhận của mình về các “Vua” Hùng và thời kỳ này của lịch sử, “The Birth of Vietnam, Dịch và Ngẫm Nghĩ,” để “Thay lời dịch giả” cho cuốn sách. Nhưng bài viết này chỉ được phổ biến trên các trang mạng Internet và một vài tờ báo hay tạp chí ở nước ngoài, chớ không được in vào sách. (Tuy nhiên, học giả Ngô Nguyên Nghiễm có cho in lại toàn bài trong phần Phụ Lục II, Quyển Hạ, bộ sách đồ sộ Chân Dung Văn Nghệ Sĩ Qua Góc Nhìn Ngô Nguyên Nghiễm, nxb Hội Nhà Văn, 2020).
Hôm nay nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, TK trích một đoạn từ bài viết này post trên Fb để chia sẻ một quan niệm lịch sử của mình với các bạn nào quan tâm. Phần trích hơi dài.
(Bắt đầu trích):
“Chương đầu tiên của cuốn sách nói về các “hào trưởng Lạc.” Đây là một phát hiện thú vị. Thực ra, sự phát hiện này là… không phát hiện gì cả. Tác giả là một người Tây phương nhìn vào cổ sử Việt Nam với con mắt mới mẻ, không mang định kiến trước, nên không nhìn thấy một ông Lạc hầu hay Lạc tướng nào trong “triều đình các vua Hùng” trong thời đại Hùng Vương như các sử sách của ta thường đề cập.
Các sách lịch sử truyền thống của ta khi nói về thời đại Hùng Vương thường viết các vua Hùng “đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Nam Sử Lược, và vân vân). Đó là do các sử gia của ta tham khảo sử liệu Trung quốc và viết theo quan niệm tổ chức triều đình của họ.
Thật ra thời các “Vua” Hùng không hề có một hình thức triều đình với bá quan văn võ và các tổ chức ban bệ như triều đình Trung quốc – mà ta thường thấy trong truyện và phim Tàu. Thế nên, những người được sử gọi là Lạc hầu, Lạc tướng, là không hề có; hoặc họ không phải là quan tước chính quy của triều đình, mà chỉ là các tù trưởng bộ lạc, hay những người được gọi là “hào trưởng”, thường là địa chủ, giàu có, có nhiều thế lực và uy tín ở địa phương, cai quản một số dân cư trong khu vực chịu ảnh hưởng của họ. Gọi họ là các “Chúa Lạc” (Lạc lords) như cách gọi của tác giả có vẻ cường điệu quá đáng. Họ chỉ là các “hào trưởng” thôi. Lê Lợi ở thế kỷ XV cũng được sử coi là một hào trưởng như thế. Tác giả biết nghĩa của từ Lạc hầu, và từng dịch chữ Lạc hầu thành “Lạc Marquis”, nhưng trong suốt cuốn sách, khi nói đến họ, thay vì gọi họ là Lạc Marquis, tác giả chỉ gọi họ là Lạc lords – “Những hào trưởng Lạc.” Họ, các “hào trưởng” ấy, và các “vua Hùng” không có quan hệ vua tôi, mà sống nương tựa vào nhau. Tác giả viết: Dường như các vua Hùng bảo vệ các hào trưởng Lạc chống lại sự tấn công và xâm lấn từ các vùng núi, trong khi các vị hào trưởng Lạc hỗ trợ các vua Hùng bằng sức ngưởi và của cải của họ.” (“The Hùng Kings seemingly protected the Lac lords against raids and invasions from the mountains, while the Lac lords supported the Hùng kings with their manpower and wealth.” The Birth of Việt Nam, page 13).
Các hào trưởng Lạc này có thể gây áp lực với các “vua” Hùng trong một số vấn đề nhất định.
Vì những người được sử cũ gọi là Lạc hầu, Lạc tướng chỉ là những “hào trưởng” dân sự, chớ không phải quan tước triều đình, cho nên khi Thục Phán “đánh chiếm” nước Văn Lang, ông ta không phải giao chiến với các Lạc hầu Lạc tướng nào. (Thực ra, sự đánh chiếm này không xảy ra trong lịch sử.)
Trong nước Nam Việt của Triệu Đà, các hào trưởng Lạc vẫn tồn tại bên ngoài triều đình. Lộ Bác Đức đánh chiếm Nam Việt, y cũng không hề bắt bớ giết chóc một Lạc hầu, Lạc tướng nào cả, mà để yên cho các hào trưởng Lạc quản lý dân chúng trong khu vực của họ như cũ. Về các hoạt động của Lộ Bác Đức ở Nam Việt, tác giả viết: “Tuy vậy, những biến cố này không làm xáo trộn cuộc sống của người dân, và vị thế của các hào trưởng Lạc vẫn không thay đổi.” (“The life of the people was undisturbed by these events, however, and the position of the Lac Lords remained unchallenged.” The Birth of Vietnam, page 29)
Vì các hào trưởng Lạc không phải là Lạc hầu Lạc tướng gì của triều đình nên không phải là đối tượng đánh giết của quân Hán. Tác giả viết: “trong thời gian này phần lớn các hào trưởng Lạc vẫn còn giữ vững đất đai và kiểm soát được dân chúng của họ.” (“The Lac lords largely remained in control of the land and people during this time.” The Birth of Vietnam, page 29.)
Khi Mã Viện đánh hai Bà Trưng, sử chép y giết hàng vạn người nhưng không có một dòng nào nói y giết một Lạc hầu hay Lạc tướng, vì giai cấp này không hề tồn tại, chỉ có các hào trưởng dân sự mà cho đến khi nhà Hán đồng hóa họ vào ngạch quan lại và cấp cho họ “ấn đồng tua thau” thì họ mới trở thành người của chánh quyền cai trị chính nhân dân mình. Và “các hào trưởng Lạc phải đối diện với sự chọn lựa hoặc trở thành quan lại cấp dưới trong chánh quyền Hán hoặc phải làm lính ra chiến trường.” (“The Lac lords were faced with the choice of becoming subordinate officials in Han government or of taking their case to the battlefield.” (The Birth of Vietnam, page 37.)
Đó là chuyện “Lạc hầu”.
Trong suốt cuốn sách, dường như tác giả không một lần nào đề cập đến các “Lạc tướng.” Lý do là người Việt cổ thời Hùng vương không duy trì quân đội chính quy nên không hề có ông tướng nào để gọi là Lạc tướng cả! Khi cần chiến đấu chống kẻ địch nào đó, người dân tự biến thành chiến sĩ dưới quyền chỉ huy của…các mẹ, các chị! “Trong xã hội Lạc người phụ nữ có vị thế tương đối cao.
Như chúng ta sẽ thấy, khi các hào trưởng Lạc nổi lên chống lại ảnh hưởng ngày càng nặng nề của Trung quốc, các cuộc nổi dậy của họ đều do phụ nữ lãnh đạo.” (Women enjoyed a relatively high status in Lạc society. As we shall presently see, when the Lac lords eventually rose up against increasing Chinese influence, they were led by women.” The Birth of Vietnam, page 13).
Vậy, chấm dứt huyền thoại lâu đời về chuyện Lạc hầu, Lạc tướng.
Trận đánh của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng diễn ra vào mùa đông năm 938 nhưng tác giả sách The Birth of Việt Nam ghi nhầm vào mùa thu. Dù vậy, ông hiểu rõ ý nghĩa của sự việc này. “Trận đánh trên sông Bạch Đằng và sự nổi lên của Ngô Quyền là một sự kiện cực kỳ lớn lao gây rúng động cả dân tộc. Từ đây họ có thể tưởng tượng được một vị vua Việt Nam của mình;”(The battle of Bạch Đằng River and the rise of Ngô Quyền, however, had a stirring effect on the people. It was now possible for them to imagine a Vietnamese king. The Birth of Vietnam, page 269) tác giả đã ghi một nhận định bình thường nhưng từ đó chúng ta có thể hiểu ra một điều quan trọng mà cho đến nay dường như chưa một sử gia nào gợi ý: “Ngô Quyền đặt việc xưng vương của mình vào truyền thống vương quyền của đất nước.” (“Ngô Quyền was laying claim to a local tradition of kingship,” The Birth of Vietnam, page 270.)
Và “Ngô Quyền củng cố việc xưng vương của mình với sự tôn trọng phù hợp với quan niệm của người dân bản địa về quyền lực chính trị.” ( [Ngô] Quyền buttressed his royal claim with appropriate obeisance to indigenous perceptions of political authority. The Birth of Vietnam, page 270.)
Tiến sĩ K. W. Taylor nói đến “truyền thống vương quyền” và “phù hợp với quan niệm của người dân bản địa về quyền lực chính trị,” nhưng có lẽ chính ông cũng chưa nhận ra nội hàm rất đặc biệt trong từ Vương của “truyền thống vương quyền” của người Việt Nam.
Vương là một từ thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), hay nói cách khác, nó là từ “thuần Việt” được người Tàu viết với dạng biểu ý nên nó có vỏ chữ Tàu, chớ nó không phải là “tiếng Hán”.
Chữ “Vương” gồm ba vạch ngang song song ( 三 )hội ý tượng trưng tam tài Thiên – Địa – Nhân, và một vạch dọc ở giữa nối liền ba gạch ngang ( 王 ). Vậy Vương ngụ ý là người “nối thông tam tài,” hoặc đấng liên kết con người với trời đất. Trong ngữ nghĩa đó, Vương là một hiền giả, một nhà minh triết của nền văn minh nông nghiệp, hiểu rõ lẽ nhân sinh và thiên văn địa lý, chớ không phải người cai trị chính trị (vua). Có lẽ trong mỗi cộng đồng dân cư người Việt nguyên thủy với nền văn minh nông nghiệp sơ khai đều có một nhà lãnh đạo tinh thần là Vương mà quyền lực chính là uy tín cá nhân người đó.
Với vai trò “nối thông tam tài” hoặc “liên kết con người với trời đất” có lẽ vương gần với một pháp sư hơn. Hoặc vương là pháp sư của một cộng đồng. Sách (Đại) Việt Sử Lược viết: “Vào thời Chu Trang Vương (696 – 682 trước CN) ở Gia Ninh có một dị nhân dùng pháp thuật thu phục tất cả các bộ lạc. Ông tự xưng là Hùng Vương.”
“Dị nhân dùng pháp thuật” chính là cách biểu thị một pháp sư. Cả nước có thể có nhiều “vương” (pháp sư) trong từng cộng đồng dân cư nhỏ, nhưng thỉnh thoảng xuất hiện một người có pháp thuật cao cường hoặc sự minh triết vĩ đại, uy tín bao trùm cả nước, như một bậc thánh nhân; người đó được tôn là Hùng Vương, nếu không phải tự xưng như sách (Đại) Việt Sử Lược nói. Vậy, HÙNG VƯƠNG CHỈ CÓ NGHĨA NÔM NA LÀ VỊ ĐẠI PHÁP SƯ hoặc vị PHÁP SƯ TRƯỞNG của quốc gia, với tất cả sự thiêng liêng và tôn nghiêm, có thể có cả sự huyền bí nữa, dành cho chức vị này, như thấy trong chế độ thần quyền của một số dân tộc thời sơ khai, và cả trong giới tăng lữ ở châu Âu tồn tại mãi đến thời Trung cổ. Điều này phù hợp với phát hiện mới về ngôn ngữ học: “từ Hùng có nguồn gốc từ một danh hiệu của người thủ lĩnh đến nay vẫn còn tồn tại trong ngôn ngữ của các dân tộc nói tiếng Môn-Khmer sống tại các vùng núi ở Đông Nam Á,cũng như trong tiếng Mường, thứ ngôn ngữ miền trung du gần gũi chị em với tiếng Việt. ( The name Hùng derives from an Austroasiatic tittle of chieftainship that has persisted up to the present time in the language of Mon-Khmer speaking peoples living in the mountains of Southeast Asia, as well as in Mường, the upland sister language of Vietnamese. The Birth of Vietnam, page 3.)
Vậy, nghĩa nguyên thủy của Vương không phải là “Vua”. Hùng Vương không có nghĩa và không phải là “vua” Hùng, không có tính thừa kế liên tục. Ở đâu đó nhà ngôn ngữ học Trung quốc Vương Lực cho Vua là âm cổ của Vương là điều đáng ngờ. Hai từ đó phải chỉ hai thực thể khác nhau. Trong nền văn minh nông nghiệp hiền hòa với sự lãnh đạo của các vị vương đó, ông vua chưa có mặt.
Vương thì có nhiều trong các cộng đồng địa phương, nhưng Hùng Vương thì rất hiếm. Có thể hàng trăm năm mới xuất hiện một người. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong suốt thời gian 2622 năm chỉ có 18 vị Hùng Vương (mà trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim tính bổ đồng mỗi vị trị vì đến gần 150 năm!)
Sách Hán Tự Tố Nguyên ( 汉字溯源 ) của Lý Lạc Nghị nói dạng kim văn của chữ Vương là tượng hình lưỡi rìu, ( ) với ý nghĩa người cầm lưỡi rìu là người nắm giữ quyền lực, tức là vua. Kim văn là chữ tượng hình khắc trên đồ đồng từ đời nhà Thương được phát hiện tại các di chỉ Ân Khư, kinh đô nhà Thương, thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc (1). Người ta biết lưỡi rìu là vũ khí đặc trưng của người Việt cổ. (Vũ khí đặc trưng của người Tàu là kiếm). Nhìn hình dạng lưỡi rìu người ta nghĩ ngay đến một ông vua người Việt (chớ không phải một ông vua nào khác.) Thế nhưng hình cái lưỡi rìu không chứa trong nó nội hàm lớn lao là Vương đạo mà người Trung quốc cổ rất ngưỡng mộ nhưng không theo, và Khổng tử dành cả đời để thuyết giảng nhưng không vua chúa nào chịu nghe vì Vương đạo là truyền thống của người Việt. Hơn nữa, dạng giáp cốt văn của chữ Vương ( ) là hình một người (pháp sư) dang tay cầu khẩn (với trời đất.)
Người Trung quốc biết rõ Vương là một tôn hiệu mang một khái niệm ngoại lai chớ không phải từ bản ngữ với nội dung của tinh thần dân tộc họ. Trong toàn bộ lịch sử Trung quốc, chỉ có các vua nhà Chu (từ thiên niên kỷ I đến thiên niên kỷ II trước Công nguyên) xưng Vương (2). Lý do là trước đó các bộ lạc du mục từ miền Tây Bắc nước Tàu cổ tràn xuống phương Nam, sống chung với đại chủng người Việt (mà người Tàu gọi là Yüeh) nói tiếng Nam Á, phía dưới sông Hoàng Hà, và bị tiêm nhiễm văn hóa Việt, nên các vua của họ mới xưng Vương theo người Việt. Nhưng như đã biết, trong văn hóa của người Việt, Vương là một hiền giả, một người minh triết, một đấng thánh nhân, có thể cũng nắm giữ vị trí lãnh đạo xã hội, chủ yếu bằng đức độ và sự minh triết, chớ không phải bằng quyền lực và vũ lực. Thiên Hồng Phạm trong Kinh Thư viết: “Thiên tử tác dân phụ mẫu, dĩ vi thiên hạ vương” 天子作民父母, 以為天下王 (Bậc thiên tử là cha mẹ của dân, làm vương thiên hạ.) Tức nói về đức độ lãnh đạo của bậc vương, là Vương đạo, chớ không phải quyền lực cai trị. Cha mẹ thương yêu nuôi nấng dạy bảo con cái chớ không dùng quyền lực cai trị con cái bao giờ. Kinh Thư là một trong những tác phẩm kinh điển được viết vào thời nhà Chu tức thời người Trung quốc chịu ảnh hưởng văn hóa Việt này (3).
Danh hiệu Bố Cái Đại Vương mà Phùng An tôn xưng người cha vĩ đại đã qua đời của mình là trong ý nghĩa đó.
Bố Cái Đại Vương = Đấng Cha Lành Vĩ Đại.
Chớ không phải “Vua cha mẹ vĩ đại.” Đại Vương không phải và không có nghĩa là “ông vua lớn.” Và Phùng Hưng không bao giờ là ông “vua lớn” hay ông vua vĩ đại cả.
Nhân đây, trong một ghi chú trong sách (số 96, dưới trang 204) tác giả viết: (trích): “Ý kiến của Haudricourt cho rằng “Bố Cái” phải được dịch là “vua cái”, “vua vĩ đại” (John DeFrancis, “Colonialism and language Policy in Vietnam,” (Chủ nghĩa thực dân và chính sách về ngôn ngữ ở Việt Nam, trang 22) là có lý và hấp dẫn, nhưng như thế là bỏ qua sự kiện trong văn bản của Việt Điện U Linh Tập giảỉ thích một cách rõ ràng rằng: ‘Vì, theo cách nói của người địa phương, người ta gọi cha là bố, và gọi mẹ là cái” (Việt Điện U Linh Tập, 6).(hết trích)
André-Georges Haudricourt là nhà nhân chủng học và ngôn ngữ học người Pháp của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Ông hiểu rõ từ “Cái” (Nhưng “Bố” là Cha chớ không phải là Vua.) “Cái” là một từ cổ trong tiếng Việt có nghĩa “chính,” “to lớn,” “quan trọng,” “đứng đầu”… Ví dụ Sông cái, đường cái, ngón tay cái, nhà cái (sòng bạc), thợ cái (Thợ cái là người đứng đầu trong nhóm thợ)(4) v.v… “Cái” không bao giờ có nghĩa là Mẹ như được hiểu lầm. Trước kia tại một số địa phương ở miền Bắc và miền Trung, có người gọi mẹ là bu, u, hay vú; hoặc vì một số lý do đặc biệt nào đó, có người có thể gọi mẹ là dì hay chị, nhưng không nơi nào có người gọi mẹ là là “Cái” bao giờ.
Trong câu tục ngữ “Con dại cái mang”, từ “Cái” không hề có nghĩa là mẹ. “Cái” là người lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất trong gia đình. (Chỉ trong chế độ mẫu hệ, vai trò “cái” đó mới do người mẹ nắm giữ)
Dân tộc Việt Nam thuộc văn minh nông nghiệp; người Tàu nguyên thủy thuộc nền văn minh du mục. Từ nhiều ngàn năm trước người Tàu đã biết rõ sự khác biệt đó. Họ “vẽ” từ nước (quốc gia) của hai chủng dân bằng hai mặt chữ khác nhau. Chữ Quốc để chỉ quốc gia của những người Việt có vương đạo được vẽ một hình vuông bao bọc một chữ vương ở trong ( 囯 ): đất nước của văn minh nông nghiệp với vương đạo của các nhà hiền triết. Đó là chữ quốc “đơn” chỉ dùng để chỉ quốc gia của người Việt thôi, chớ bản thân người Tàu không bao giờ dùng; mà họ cũng không dùng nó để chỉ một quốc gia nào khác. Nếu coi chữ Vương là hình lưỡi rìu kim văn thì chữ Quốc ( 囯 ) càng mang nghĩa xác định nước của người Việt.
Ai học chữ Hán cũng biết, không kể chữ Quốc “đơn” với chữ Vương đó, hiện nay trong chữ Hán có hai chữ Quốc nữa, mà một, chữ quốc xưa, chữ quốc phồn thể, biểu hiện tính cách du mục của dân tộc Trung quốc.
Thoạt đầu người Tàu vẽ khái niệm quốc gia của minh bằng hai vạch ngang ( 二 ), ở giữa hai vạch là một cái ô vuông. Hai vạch tượng trưng trên là trời, dưới là… bãi chăn thả. Dưới trời và trên bãi chân thả là… người Tàu (cái ô vuông – chữ khẩu ( 口 ) – tượng trưng cho người). Trong cuộc sống du mục họ thường phải cạnh tranh giành bãi chăn thả của nhau, nên cần phải có vũ khí để bảo vệ – và để xâm lăng. Vạch ngang phía trên được vẽ thêm vài nét thành một món vũ khí – cái qua ( 戈 ). (Can qua ( 干戈 ) là cái khiên và cái qua, hai món biểu tượng cho chiến tranh). Cụm hình vẽ đó gọi là chữ “hoặc “ hay “hoắc,” ( 或 ) hàm nghĩa “có người”. Về sau, khi khái niệm quốc gia phát triển lên một mức cao hơn, họ vẽ thêm chữ “vi”, ( 囗 ) một ô vuông to hơn, bao bọc chung quanh chữ “hoặc” – như biên giới bảo vệ chỗ “có người.” – Đó là chữ Quốc phồn thể ( 國 ) hàm nghĩa đất nước của người du mục, có vũ khí để xâm lăng và tự vệ.
Năm 1949, trong khi cải tổ chữ viết họ nói chữ Quốc phồn thể nhiều nét rắc rối, khó nhớ quá, phải đơn giản thôi. Tuy vậy, họ vẫn không dùng chữ quốc minh triết của người Việt đã có sẵn từ nhiều ngàn năm. Họ sửa nó bằng cách thêm một dấu chấm vào cạnh nét sổ dọc của chữ Vương, biến chữ Vương ( 王 ) thành chữ ngọc ( 玉 ). Đó là chữ Quốc thứ ba, ( 国 )giản thể, hiện nay, ngụ ý: Trung Quốc ( 中国 ) là đất nước của ngọc ngà châu báu (chớ không phải của Vương đạo – Vương đạo là thứ của dân tộc Việt thuộc văn minh nông nghiệp.)
Người Tàu biết rõ như thế, còn người Việt (xưa) có lãnh hội điều đó không?
Có.
Không những có biết mà tiền nhân ta đã tỏ ra rất tự hào về điều này.
Có một giai thoại kể chuyện trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tàu. Trong một cuộc chiêu đãi các sứ thần ngoại quốc ngay tại triều đình Trung quốc, vị hoàng đế Trung quốc có ra đề thơ hay câu đối gì đó và yêu cầu các sứ thần đáp lại. Do ngôn ngữ bất đồng, các sứ giả phải dùng cách bút đàm. Bài thơ (hay câu đối) của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi được chấm giải nhất, với lời nhận xét của vua Tàu: về sau con cháu sẽ “có nước”, nhưng vì trạng nguyên dùng chữ Quốc “đơn” nên phúc phận con cháu không nhiều.
Không xét chuyện “phúc phận” của con cháu Mạc Đĩnh Chi ra sao, chỉ cần thấy một ông trạng nguyên, chắc chắn là người học vấn giỏi nhất thiên hạ, từng đọc thiên kinh vạn quyển biết rõ người Tàu không đánh giá cao vương đạo của dân tộc mình, thế mà giữa triều đình của đại quốc, trước mặt “thiên tử” ông điềm nhiên viết ra cái hình vẽ rạng rỡ mang niềm tự hào dân tộc!
“Trong nền văn minh du mục, người lãnh đạo nắm toàn quyền cai trị và thống nhất xã hội bằng vũ lực. Chính sự bắt chước theo văn hóa Việt đã làm phân hóa xã hội của chủng dân du mục. Tước vị Vương của nhà Chu chỉ cho họ một điều thích hợp duy nhất là tôn người lãnh đạo lên bậc chí tôn, thiên tử, con trời. Nhưng vì không có quyền lực và vũ lực trong tay nên ông con trời đành bất lực nhìn đất nước phân tán nát bấy. Nhà Chu có tới tám trăm nước chư hầu. Tức là tám trăm bề tôi của cùng một ông vua đều mỗi người làm vua một cõi mà thiên tử nhà Chu yếu thế không có vũ lực trong tay, không làm gì được, kể cả khi đám bề tôi đó liên tục nhân danh thiên tử để triệt hạ và thâu tóm lẫn nhau.
“Vì thấy rõ cái Vương đạo của người Lạc Việt chỉ phù hợp cho chủng dân với nền văn minh nông nghiệp hiền hòa và minh triết, không thể áp dụng được cho chủng dân vốn xuất phát từ nền văn minh du mục, nên mặc cho Khổng Tử mang Vương đạo đi rao giảng khắp nơi mòn giầy lỏng gối mà chẳng ai thèm nghe theo.
“Khi Tần vương Doanh Chính thống nhất thiên hạ, ông ta quyết định xưng Đế theo truyền thống của người dân du mục trước đó. Thủy Hoàng Đế: Hoàng Đế đầu tiên.” (Thiếu Khanh, “Ai đã ru ngủ chúng ta?” http://www.art2all.net/tho/tho_tk/aidarunguchungta.html )
Xưng mình là Hoàng đế đầu tiên, Tần Thủy Hoàng đế mặc nhiên “xổ toẹt” tất cả truyền thống đã bị nhiễm văn hóa Việt trước đó để lập lại một truyền thống hoàn toàn mới của người Trung quốc.
Sao vậy?
Thì trong truyền thống cũ, các ông “đế” của chủng dân văn hóa du mục nhiễm văn hóa Việt và bắt chước người Việt xưng vương; các ông đế cũ trước đó được gọi tên theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt, những Đế Thuấn, đế Nghiêu, đế Minh, đế Lai… không còn “thuần túy” nữa. Từ đó, từ sau nhà Tần trở đi, nước Tàu dù trải qua những thời kỳ chia năm xẻ bảy manh mún, (Tam quốc, Lục triều, ngũ đại hay ngũ quý) các lãnh tụ chiến thắng lên ngôi đều xưng đế. Tất cả họ hiểu rõ mình không thuộc nền văn minh vương đạo nhu hòa của chủng người Lạc Việt.
Vì Hùng vương (Pháp sư trưởng) không phải là vua, ông ấy không cai trị cho nên không có triều đình với bá quan văn võ rành mạch như của Tàu. Cho rằng “Các vua Hùng duy trì uy thế với một cuộc sống triều đình sung túc,” (The Hùng kings maintained their prestige with a prosperous court life… The Birth of Vietnam, page 13) là không có cơ sở. Các “vua” Hùng có thể có những gia đình riêng sung túc, nhưng một triều đình với vua quan cai trị như triều đình của Tàu thì không hề có. Sử chép ngoài các con, trai gọi là Quan Lang, gái gọi là Mỵ nương, và những người giúp việc cho ông ấy được gọi là Bồ Chính, Hùng vương không có quan viên nào khác. Vì vậy, các lạc hầu, lạc tướng chỉ là do người Tàu bịa đặt theo quan niệm truyền thống với triều đình của họ mà thôi.
Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim theo các cổ thư Tàu, viết: “Quyền chính trị [của các “vua” Hùng] thì cha truyền con nối, gọi là phụ đạo” (5) cũng là nói theo lời của các sử gia Tàu bịa đặt, chớ thời bấy giờ dân tộc Việt còn ở chế độ mẫu hệ, chưa chuyển qua phụ hệ, làm gì có chuyện “cha truyền con nối gọi là phụ đạo”! Những cuộc nổi dậy do phụ nữ lãnh đạo như ta đã thấy. Mỵ nương đi chơi, gặp cậu thanh niên nghèo rớt mồng tơi trên bờ sông Chử (Chử Đồng tử), nàng lấy làm thích, bèn tự ý và chủ động “bắt” làm chồng mà chẳng thèm hỏi ý cha mẹ hay triều đình nào cả; chẳng phải đó là một bằng chứng rõ ràng của chế độ mẫu hệ và tình trạng Hùng Vương không có triều đình đó sao? Không những đến đầu Công nguyên, cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng vẫn mang đậm màu sắc và tinh thần mẫu hệ (“Các nguồn tư liệu Trung quốc nói rõ Thi Sách phục tùng sự lãnh đạo của vợ,” – The Chinese sources make it clear that Thi Sách followed his wife’s leadership. The Birth of Vietnam, page 39.) mà đến cuộc khởi nghĩa của bà Triệu trong thế kỷ II Công nguyên, tàn tích mẫu hệ vẫn còn. Nếu không phải do tàn dư của tinh thần mẫu hệ thì liệu hàng vạn người lính nam giới kia có chịu vâng lệnh một cô gái 19 tuổi không? Phải, lúc khởi nghĩa “bà” Triệu là một thiếu nữ chưa chồng,19 tuổi, và “bà” tuẩn tiết khi mới 23 tuổi. Khi bà Triệu đem binh giúp anh là Triệu quốc Đạt, thì sử sách không nhắc đến tên Triệu Quốc Đạt nữa. Người anh đó đã phục tùng sự chỉ huy của em gái mình.
Chúng ta biết dân tộc mình thuộc nền văn minh nông nghiệp nhưng thường quên rằng với nền văn minh có tính cách nhu hòa đó, tổ tiên người Việt thời tiền sử sống trong chế độ mẫu hệ. Sau hàng ngàn năm bị Tàu đô hộ, bị chúng “cưỡng bách cải đạo” một cách khắc nghiệt từ mẫu hệ sang phụ hệ, như chúng ta thấy tên thái thú Nhâm Diên thực hiện ở Cửu Chân, từ đó chúng ta quen nhìn lịch sử nước nhà qua lăng kính phụ hệ của người Tàu. Chúng ta luôn nói chuyện 18 ÔNG Hùng Vương, để đi đến kết luận về tính “cha truyền con nối gọi là phụ đạo.”
Trong chế độ mẫu hệ, tại sao nhất thiết phải là 18 ÔNG Hùng Vương? Khi hiểu Hùng Vương là một Đại Pháp sư, hay một Pháp sư Trưởng của cả nước, tại sao không là các BÀ Hùng Vương nhỉ?
Vì văn hóa Nho giáo của Tàu trọng nam khinh nữ, người phụ nữ trong xã hội Tàu không được phép có mặt ở những nơi thờ phượng tôn nghiêm hay tham dự các hoạt động xã hội hoặc các nghi lễ có tính tâm linh. Văn hóa Việt Nam hoàn toàn trái lại. Tiến sĩ K. W. Taylor nhận thấy tính song phương (bilateral) trong xã hội cổ Việt. Nghĩa là trong xã hội Việt Nam người phụ nữ có vị thế cao ngang bằng với nam giới. Cho đến thế kỷ đầu Công nguyên, “tinh thần mẫu hệ của thời này còn được xác nhận mạnh mẽ hơn nữa với sự kiện là mộ và đền thờ của thân mẫu bà Trưng Trắc vẫn còn đó mà tuyệt không thấy có di tích gì cả của phụ thân bà.” (The matriachal flavor of the time is further attested by the fact that Trưng Trắc’s mother’s tomb and spirit temple have survived, although nothing remains of her father. The Birth of Vietnam, page 39) cho thấy lúc bấy giờ vai trò người đàn ông trong xã hội còn ở đâu đâu và… chưa là cái đinh gì hết! “Hình luật của các triều đại Việt Nam trong các thế kỷ muộn về sau phản ảnh một vị thế tương đối cao của người phụ nữ, biểu thị sự đề kháng ảnh hưởng chế độ phụ quyền từ Trung quốc. Xã hội Việt Nam thời thượng cổ có thể là không phải chịu sự kiểm soát của phụ nữ, nhưng rõ ràng là phụ nữ có các quyền thừa kế cho phép họ đảm nhiệm các vai trò lãnh đạo chính trị.” (The law codes of Vietnamese dynasties in later centuries reflect a relatively high status for women, indicating resistance to patriarchal influence from China. Ancient Vietnamese society may not have been controlled by women, but it is clear the women enjoy hereditary rights that allowed them to assume roles of political leadership. The Birth of Vietnam, page 77.)
Thế thì rất có thể đã tồn tại các BÀ Hùng Vương!
(Hết trích)
TK
Ghi chú:
1. Ân Khư có nghĩa là gò đống di tích đổ nát của (kinh đô) nhà Ân.
2. Ông vua cuối cùng của nhà Thương trước đó thường được gọi là Trụ vương, thực ra danh hiệu ông ấy là Tân Tụ, hoặc Đế Tân Trụ. Chỉ riêng một nhà Chu xưng vương.
3. Giáo sư Linh mục Kim Định nói nhiều về thời kỳ này mà ông gọi là “huyền sử” trong triết thuyết An Vi của ông.
4. Theo nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc, “Cái là một danh từ Mã Lai [tức ngôn ngữ Nam Á (ND)], có nghĩa như trên vào thời xưa: Bố Cái là ông cha hùng mạnh, ông cha thủ lãnh […] Hiện nay Mã Lai có danh từ Ibu Láki đúng nghĩa là Bố Cái…” (Ibu: âm cổ của Bố; Láki: âm cổ của Cái.), (Nguồn Gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xb, Saigon, 1971, trang 573)
5. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, nxb Tân Việt, Saigon, in lần thứ 6, 1968, trang 24
Thiếu Khanh