Tác giả: Thầy Nguyễn Văn Thái
Quan niệm về quan hệ vợ chồng của những người đàn bà thuộc gia đình giàu có, quý tộc, hay quan trường trong thời nhà Nguyễn (1802-1945) lệ thuộc nặng nề vào sự giáo huấn của Khổng giáo Tống Nho, nghĩa là người đàn bà trong gia đình đóng một vai trò gần như nô thuộc người đàn ông. Giá trị của người đàn bà thật quá nhỏ bé: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô.” [Một trai coi như có, mười gái coi như chẳng có gì]. Đàn ông thì có quyền “năm thê, bảy thiếp” còn người vợ thì phải “chính chuyên một chồng” và hầu như chỉ là kết quả của một sự đổi chác tính bằng tiền của. Do đó, người vợ thường phải làm việc vất vả cho gia đình chồng để trả lại cái giá đổi chác vật chất ấy. Hơn nữa, mối quan hệ vợ chồng trong bối cảnh của những gia đình thượng lưu, giàu có, hay quan quyền thường mang rõ nét cảnh “chồng chúa, vợ tôi” nặng bản chất hệ đẳng và uy quyền hơn là tình yêu.
Ngược lại, người đàn bà ở vùng thôn quê có một quan niệm rất phóng khoáng và lành mạnh về quan hệ vợ chồng. Trước tiên người đàn bà dân dã quan niệm vợ chồng là kết quả của sự tương hợp giữa người đàn bà và người đàn ông, là kết quả của tình yêu.
Phải duyên thì dính như keo
Trái duyên, chổng chểnh như kèo đực vênh.
Giàu trong làng trái duyên khôn ép
Khó nước người phải kiếp cũng theo
Ai chẳng ham sang trọng; Ai chẳng vọng sang giàu
Nhưng mà em xét lại câu:
“Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”
Vậy nên em bỏ thảm, bỏ sầu
Đành cam chịu cực, hơn cơ cầu về sau.
Chồng không yêu, yêu ai?
Đạp xe nước chảy lên đồng
Bao nhiêu nước chảy, thương chồng bấy nhiêu!
Qua đồng ghé nón thăm đồng
Đồng bao nhiêu lúa, thương chồng bấy nhiêu.
Mẹ cha bú mớm nâng niu
Tội Trời thì chịu, không yêu bằng chồng.
Thương ai bằng nỗi thương con
Nhớ ai bằng nỗi gái son nhớ chồng.
Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen.
Thương chồng nên phải gắng công
Nào ai xương sắt, da đồng chi đây!
Thương chồng nên phải lầm than
Xưa nay ai bắt việc quan đàn bà.
Thương chồng phải luỵ cùng chồng
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải theo.
Vai mang khăn gói sang sông
Mẹ kêu khốn tới, thương chồng khốn lui.
Vai mang khăn gói thẳng xông
Mẹ kêu, lạy mẹ; thương chồng phải theo.
Mồ hôi gió đượm
Thiếp thương chồng, thiếp phải chạy theo
Con ơi! Mẹ dắt lên đèo
Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia.
Phải chi bạc để lộn vàng
Thiếp đi lính thế cho chàng ít năm.
Sập vàng mà trải chiếu hoa
Không bằng áo thiếp đắp qua dạ chàng.
Phải chi em vác nổi cây súng đồng
Em đi lính thế cho chồng một khi.
Tay đeo khăn gói qua sông
Mẹ ôi! Lạy mẹ, thương chồng phải theo.
Thiếp vì chàng, thiếp mới lênh đênh trên biển ái
Chàng vì thiếp mới lỗi đạo tâm can
Em đây thủ tiết buồng lan
Dầu hồn về chín suối, hãy còn mang tượng chồng.
Tay mang khăn gói sang sông
Bồ hôi nó đẫm, thương chồng phải theo.
Đèn lồng khi xách khi treo
Vợ chồng khi thảm, khi nghèo có nhau.
Đi đâu, có anh, có tôi
Người ta mới biết rằng đôi vợ chồng
Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Tay em cầm nắm giang [nhang], cây tắt, cây đỏ
Tay em bứt ngọn cỏ, lá héo, lá khô
Tay em bồng đứa con thơ, vun nấm, xoa mồ
Khổ cam phận khổ, biết khi mô cho chộ chàng.
Giận chồng xách gói ra đi
Chồng theo năn nỉ tù ti trở về.
Ở sao như lụa đừng phai
Tình chồng, nghĩa vợ nhớ hoài không quên.
Một thương, hai thương, ba thương, bốn nhớ
Tình chồng, nghĩa vợ là đức cù lao
Sông sâu, ai dám tới đào
Bạn về nhà bạn, nước mắt trào như mưa.
Đói no, một vợ một chồng
Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi.
Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm.
Tép đồng ăn với rau mưng
Chồng ăn, vợ nhịn, xin đừng bỏ nhau.
Thuyền sang cũng mạnh gió đông
Em sang cũng mạnh hơi chồng mà sang.
Thương ai cho bằng thương chồng
Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thương
Khuyên chàng cờ bạc thì chừa
Rượu chè, trai gái, say sưa mặc lòng.
Theo quan điểm của người đàn bà dân dã, chỉ có tình yêu là có thể san bằng được tất cả mọi khó khăn. Một khi đã yêu thì xấu cũng thành đẹp, dở cũng thành hay. Và một khi đã ghét thì, ngược lại, hay cũng thành dở, đẹp cũng thành xấu. Trên thực tế, hành vi của con người thường bị tình cảm, hơn là lí trí, chi phối một cách rất mãnh liệt, mãnh liệt đến độ chính lí trí cũng không thể hiểu được. Blaise Pascal, một triết gia Pháp lừng danh của thế kỉ 17, đã từng nói là “Le cœur a ses raisons que la raison ne connaît point.” [Con tim có những lí lẽ của nó mà lí trí không biết được một chút nào cả].
Yêu nhau đưa đến hồ sen
Ghét nhau nhận xuống bùn đen đất lầy.
Yêu nhau: trầu vỏ cũng say
Ghét nhau: cau đậu đầy khay chẳng màng.
Yêu nhau: xé lụa may quần
Ghét nhau: kể nợ kể nần nhau ra.
Yêu thì yêu cả tông chi
Ghét thì ghét cả đường đi lối về
Yêu ai, yêu cả đường đi
Ghét ai, ghét cả tông chi họ hàng.
Yêu nhau: mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Yêu nhau: mọi việc chẳng nề
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Yêu nhau quá đỗi nên mê
Rồi sau mới biết kẻ chê, người cười.
Yêu nhau: tam, tứ núi cũng trèo
Thất bát khe cũng lội; tứ, cửu tam thập lục đèo cũng qua.
Yêu: Nói liều cũng đúng.
Thương anh vô giá quá chừng,
Trèo truông quên mệt, gậm gừng quên cay.
Nhác trông thấy bóng anh đây,
Ăn chín lạng ớt, ngọt ngay như đường.
Lỗ mũi em thì tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo tơ hồng Trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ, thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Hơn nữa, người đàn bà dân dã coi trọng tình nghĩa hơn tiền của. Trong ngữ cảnh của bài viết này, từ “nghĩa” [義] – được hiểu theo từ điển Hán Việt trên mạng của Đặng Thế Kiệt – có hai nội dung: (1) “Sự tình đúng với lẽ phải, đúng với đạo lí”, và (2) “lấy ân tình cố kết với nhau.” Ý nghĩa trong ngữ cảnh của các câu ca dao trích dẫn sau đây phản ánh nội dung của cả hai định nghĩa. Có lúc ý nghĩa “tình” được đặt nặng, có lúc ý nghĩa “đạo lí, lẽ phải” được đánh nổi. Đạo lí và lẽ phải trong quan hệ vợ chồng được người đàn bà dân dã hiểu là không phản bội, không phụ bạc, không “để” [bỏ] vợ. Tình yêu và đạo lí của lẽ phải được người đàn bà dân dã coi trọng hơn của cải, tiền bạc. Tình nghĩa, đối với người đàn bà ở vùng thôn dã, là nền tảng của quan hệ vợ chồng.
Tìm vàng, tìm bạc dễ tìm,
Tìm câu nhân nghĩa, khó tìm bạn ơi!
Tiền tài nay đổi, mai dời,
Nghĩa nhân gìn giữ trọn đời với nhau.
Vàng tiêu lâu cũng hết, nghĩa đến chết vẫn còn.
Tiền tài như phấn thổ,
Nghĩa trọng tựa thiên kim.
Le le mấy thuở chết chìm,
Người thân ở bạc, thôi cũng nỏ kiếm tìm làm chi!
Thương nhau chẳng luận sang hèn,
Nghĩa nhân mới trọng, bạc tiền kể chi.
Nghèo mà có nghĩa còn hơn,
Còn hơn sang cả mà lòng bội phu.
Giàu lòng nhân nghĩa mọi bề,
Mới là đá tạc vàng ghi chữ giàu.
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,
Lựu xa đào, lựu ngã đào nghiêng.
Vàng cầm trên tay rớt xuống không phiền,
Phiền người bội nghĩa, biết mấy niên cho hết sầu.
Khuyên đừng phụ chốn khó khăn,
Khó mà biết ngãi đạo hằng hơn sang.
Dẫu rằng nhà ngói, bức bàn
Chẳng yêu coi bẵng bằng gian chuồng bò.
Kiếm nơi cha thảo, mẹ hiền
Gửi thân khuya sớm, bọc tiền không tham.
Đạo vợ chồng nặng nghĩa phu thê
Đòi tiền ngàn, ăn cũng hết; sau thiếp về ăn chi?
Một thương, hai thương
Ba thương, bốn nhớ
Đạo chồng, nghĩa vợ
Là đức cù lao
Nhớ khi trăng gió, mưa rào
Trăm năm, gối phượng má đào bên em.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng,
Dẫu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.
Cầu Đôi mà tháp cũng Đôi,
Dễ chi nhân nghĩa mà rời được sao.
Đứt tay một chút còn đau,
Huống chi nhân nghĩa, lìa sao cho đành.
Cây đa cũ, bến đò xưa,
Người mà có nghĩa, nắng mưa cũng chờ.
Hết dầu đèn cháy tới tim,
Một ngày gá nghĩa cũng niềm phu thê.
Vợ chồng xét nhân nghĩa.
Anh em cốt nhục đồng bào,
Vợ chồng là nghĩa, lẽ nào không thương.
Đốm bò miệng chậu sáng trưng,
Thấy mình có nghĩa, lòng ưng dạ đành.
Chèo ghe vượt sóng qua sông,
Đạo nghĩa vợ chồng nặng lắm, ai ơi!
Đốn cây, ai nỡ dứt chồi,
Tình chồng, nghĩa vợ, giận rồi lại thương.
Dùng dằng tay lại nắm tay,
Đó đây là ngãi, ngàn ngày chớ quên.
Chàng về giẫm cội cho bền,
Gió rung, em quyết không quên ngãi chàng.
Anh đừng ham nơi nhà sàn, ngõ ngói,
Trông thì vòi vọi, vỏ có, ruột không.
Nghèo như em đây, biết ơn nghĩa vợ chồng,
Đổ mồ hôi, em quạt; ngọn gió lồng, em che.
Với niềm tin là quan hệ vợ chồng phải được đặt trên nền tảng tình nghĩa chứ không phải của cải, tiền bạc, người đàn bà dân dã khẳng định là chỉ có tình yêu mới giúp vợ chồng vượt qua được tất cả mọi khó khăn; và tình yêu không những chỉ mang dấu ấn của sự rung động do cảm xúc mang lại mà còn phải được gắn kết với bổn phận, với đạo lí của sự ràng buộc son sắt trong suốt cuộc đời. Do đó, hệ luận của mối quan hệ vợ chồng, đối với người đàn bà dân dã, là sự thuỷ chung. Người đàn bà dân dã trân quý và tôn trọng sự chung thuỷ trong tình vợ chồng trong tất cả mọi cảnh huống của cuộc đời — giàu sang phú quý, đói rách nghèo khổ, hay phải xa cách trong một thời gian dài vì chồng phải đi lính hay phải đi làm xa — và người đàn bà cũng đòi hỏi chồng mình phải chung thuỷ.
Lấy nhau cho trọn đạo Trời
Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.
Vợ chồng đồng tịch, đồng sàng
Đồng sinh, đồng tử, cưu mang đồng lần.
Trăm năm giữ vẹn chữ tùng
Sống sao thác vậy, một chồng mà thôi.
Vái Trời cho đặng vuông tròn
Trăm năm giữ vẹn lòng son với chàng.
Ngu si cũng thể chồng ta
Dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng người.
Xấu xa cũng thể chồng ta
Dẫu rằng tốt đẹp cũng ra chồng người.
Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
Trăm năm, trăm tuổi, may rủi một chồng
Dầu ai thêu phụng, vẽ rồng mặc ai.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng
Dẫu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.
Em là con gái có chồng
Mồ cha những đứa đem lòng nọ kia.
Gái goá chồng, phòng không trực tiết
Trai goá vợ mải miết ngoài đường.
Trăm năm ước hẹn chung tình,
Trên trời dưới đất chỉ mình với ta.
Vợ chồng là nghĩa phu thê.
Vợ chồng gửi xương, gửi thịt.
Vàng ròng vào lửa chẳng phai,
Búa rìu sấm sét, không phai ân tình.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng,
Dẫu cho nghiêng núi, cạn sông, chẳng dời.
Vợ chồng nghĩa nặng, tình sâu,
Thương cho đến thuở bạc đầu vẫn thương.
Mình về, tôi cũng về theo,
Sum vầy phu phụ, đói nghèo có nhau.
Dù khi đĩa muối, chén rau,
Thuỷ chung ta giữ, sang giàu mặc ai.
Tay ấp má kề, sinh tử có nhau.
Đói no một vợ, một chồng.
Đôi ta như áo vải màu,
Trăm giặt, nghìn gội, dãi dầu không phai.
Muối ba năm còn mặn,
Gừng chín tháng còn cay.
Đạo cang thường chớ đổi, đừng thay,
Dẫu làm nên danh vọng hay rủi ăn mày, ta vẫn thương nhau.
Ai về ai ở mặc ai,
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh.
Ở sao cho vẹn cho toàn,
Giao ngôn chớ phụ, nghĩa vàng chớ vong.
Thề nguyền sau trước nhất ngôn:
Sống nằm chung gối, chết chôn chung mồ.
Dù cho cạn nước Thu Bồn,
Hải Vân hoá cát, biển Đông thành đèo.
Dù cho cay đắng trăm chiều,
Cũng không lay được tình keo nghĩa dày.
Dù cho…cho đến bao giờ,
Lòng đây, dạ đấy vẫn trơ như đồng.
Tháp kia còn đứng đủ đôi,
Cầu kia đủ cặp huống chi tôi với mình.
Tháp trải nắng sương, cầu nương sắt đá,
Dẫu người thiên hạ tiếng ngã lời nghiêng.
Cao thâm đã chung lòng nguyền,
Còn cầu, còn tháp, còn duyên đôi đứa mình.
Non sông nặng gánh chung tình.
Trăm năm ai chớ bỏ ai,
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài thành kim.
Trăm năm lòng gắn, dạ ghi,
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không.
Trăm năm lòng gắn, dạ ghi,
Dầu ai thay cúc, đổi khuy cũng đừng.
Trăm năm tạc một chữ đồng,
Dầu ai thêu phụng, vẽ rồng mặc ai.
Chim xa bầy thương cây nhớ cội
Vợ xa chồng đạo nghĩa nào sai
Vàng dòng [ròng] cả lửa chẳng phai
Ở cho chung thuỷ, có ngày gặp nhau.
Trời cao bể rộng mênh mông,
Ở sao cho trọn tấm tình phu thê,
Trót đà ngọc ước vàng thề,
Dẫu rằng cách trở sơn khê cũng liều.
Vợ chồng đầu gối má kề,
Làm sao mà bỏ mà về cho đang.
Hồ về chận lại đá ngang,
Về sao cho đứt cho đang mà về.
Dạ ai hoài tâm tư bất tuyệt
Lòng ưu tư nhật nguyệt vô vong
Ai vong thiếp cũng không vong
Ôm lòng chờ đợi, đầu tóc bạc răng long cũng đành.
Sạch con thì lắm người bồng
Xinh chồng thì lắm người thương
Tin chàng lòng dạ như gương
Không quên nghĩa thiếp, người thương mặc người.
Trăng lên vừa tới mái hiên,
Thiếp thảm, chàng phiền, có nhớ hay quên?
Làm người, phụ bạc sao nên,
Trông xuống thẹn đất, trông lên thẹn trời.
Nói ra, dạ giữ lấy lời,
Lênh đênh mặt biển chân trời quản bao.
Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi! Chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
Đôi ta chung mẹ chung thầy,
Đêm trăng chung võng, vơi đầy thuỷ chung.
Tay nâng chén muối, đĩa gừng,
Gừng cay, muối mặn, xin đừng bỏ nhau.
Tình yêu, nhân nghĩa, thuỷ chung là chất liệu nền tảng xây nên mối quan hệ vợ chồng mà kết quả tất yếu là đơn vị gia đình. Và để có một gia đình đầm ấm thì cần phải có sự thuận hoà của các thành viên trong gia đình. Sự hoà thuận này bắt đầu với hai thành viên đầu tiên: người chồng và người vợ. Vợ chồng hợp tác, đồng thuận, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi công việc, không cãi vã, bất hoà là điều kiện cần thiết để có được một gia đình hạnh phúc. Do đó, người đàn bà dân dã trân quý và vinh danh sự hoà hợp giữa vợ và chồng, không những chỉ trong ý nghĩa cảm xúc của tình yêu mà còn trong ý nghĩa bổn phận thực tế: lo lắng cho nhau, săn sóc nhau, giúp đỡ nhau trong tinh thần “tương thân tương ái” của người bình dân Việt Nam.
Vợ chồng chớ cãi nhau hoài
Sao cho trong ấm thì ngoài mới yên.
Vợ chồng : “tương kính như tân”
Mới nên tương hợp, tương thân, tương hoà.
Yêu nhau cho mặn cho mà
Chồng vợ thuận hoà, trong ấm ngoài êm.
Thuận vợ thuận chồng, bể Đông tát cạn
Chồng hoà, vợ thuận.
Một miếng, nửa miếng, có vợ có chồng.
Phu phụ hoà, gia đạo thành.
Chồng hoà, vợ thuận; gia đường yên vui.
Vợ chồng như đôi cu cu
Chồng thì đi trước, vợ gật gù theo sau.
Vợ chồng như nút với khuy
Sao anh không than vãn lời gì cho em nghe?
Xét ra trong đạo vợ chồng
Cùng nhau tương cậy để phòng nắng mưa.
Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng Giêng trồng đậu, tháng Hai trồng cà
Tháng Ba cày vỡ ruộng ra
Tháng Tư làm mạ, mưa sa đầy đồng
Ai ai cũng vợ cũng chồng
Chồng cày, vợ cấy, trong lòng vui thay
Tháng Năm gặt hái đã xong
Nhờ Trời một mẫu năm nong thóc đầy
Năm nong đầy em xay, em giã
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo
Sang năm lúa tốt, tiền nhiều
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng
Đói no, có thiếp, có chàng
Còn hơn chung đỉnh, giàu sang một mình.
Vợ chồng kết tóc trên trời
Đói no ta sẽ lấy lời bảo nhau
Ăn thường cơm muối, canh rau
Hàn vi thuở trước, thuở sau thanh nhàn.
Vợ chồng là nghĩa tao khang
Chồng hoà, vợ thuận, gia đường yên vui
Sinh con mới ra thân người
Làm ăn thịnh vượng, đời đời ấm no.
Chồng chài, vợ lưới, con câu
Lân la khúc vịnh mặc dầu nổi trôi.
Sớm khuya có vợ có chồng
Cày sâu, bừa kĩ mà mong được mùa.
Nên thì một vợ một chồng
Một niêu cơm tấm, một đùm mắm nêm.
Chồng chuồi, vợ dệt chiếu hoa
Tay trao khổ dệt, đôi đà đáng đôi.
Trời hè lắm trận mưa rào
Gặt sớm, phơi sớm, liệu sao cho vừa
Khuyên em chớ ngại nắng mưa
Của chồng, công vợ, bao giờ quên nhau.
Kể chi trời rét đồng sâu
Có chồng có vợ rủ nhau cày bừa
Bây giờ trưa đã hồ trưa
Chồng vác cây bừa, vợ dắt con trâu
Một đoàn chồng, vợ trước sau
Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng.
Rủ nhau đi cấy, đi cày
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Lấy anh thì sướng hơn vua
Anh đi xúc giậm được cua kềnh càng
Đem về nấu nấu, rang rang
Chồng chan, vợ húp lại càng hơn vua.
Ngoài ra, còn có một yếu tố khá quan trọng trong quan niệm của người đàn bà dân dã về thành phần cấu trúc của gia đình. Đó là giá trị về phẩm giá của người chồng. Người đàn bà dân dã thường có ước vọng được lấy một người chồng có học thức. Và trong hầu hết mọi trường hợp người đàn bà đã hi sinh rất nhiều, chịu khó làm ăn vất vả trong nhiều năm, có khi suốt cả cuộc đời, để nuôi chồng ăn học đến thành tài. Tuy nhiên, cũng không thiếu bằng chứng người đàn bà thất vọng vì người chồng lười biếng, không chịu lo học, hoặc người chồng chỉ có chức vị và danh giá hão huyền mà không đủ phương tiện đáp ứng được những nhu cầu vật chất cần thiết hằng ngày của gia đình. Do đó, sự lựa chọn của người đàn bà dân dã thường rất thực tế.
Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm
Mùa đông trời rét căm căm
Đi cấy được ba mươi sáu đồng kẽm về, nó lại nằm nó ăn.
Thôi đừng lấy chú biện tuần
Tuy rằng hào nhoáng, nợ nần chan chan.
Lấy ai thì cũng một chồng
Lấy anh hàng thịt, ăn lòng sớm mai.
Lòng ta muốn lấy thợ kèn,
Đám sang thì bánh, đám hèn thì xôi.
Nhưng dù sao thì ước vọng của người đàn bà dân dã được lấy chồng có học là một hiện tượng khá phổ biến trong quần chúng. Người ta thường tin rằng lí do người đàn bà ước vọng lấy được chồng học thức là có mục đích khi chồng đỗ đạt, được làm quan thì người đàn bà sẽ có một cuộc sống vươn lên khỏi cảnh bùn lầy nước đọng, được sung sướng và hãnh diện với người trong làng. Suy luận này hẳn nhiên là đúng. Tuy nhiên, số người đỗ đạt và làm quan thực sự chẳng bao nhiêu. Cho nên, sự quyến rũ của người chồng có học đối với người đàn bà dân dã còn được thể hiện ở sự hiểu biết, ở tư cách ứng xử thanh lịch chứ không chỉ ở tiềm năng quyền cao, chức trọng của người chồng.
Sau đây là những câu ca dao minh chứng người đàn bà dân dã ước mơ lấy được chồng có học thức với mục đích là trong tương lai chồng mình sẽ đỗ đạt và được vua ban quyền cao chức trọng đem lại sự sung sướng và hãnh diện cho bản thân và gia đình.
Em là con gái Phụng Thiên
Bán rau mua bút, mua nghiên cho chồng
Nửa mai chồng chiếm bảng rồng
Bõ công tắm tưới, vun trồng cho rau.
Em thời canh cửi trong nhà
Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng
Trước là vinh hiển tổ đường
Bỏ công đèn sách, lưu phương đời đời.
Em thì canh cửi việc nhà
Chàng thì đi học, đỗ ba khoa liền
Khoa trước thì đỗ giải nguyên
Khoa sau tiến sĩ, đỗ liền ba khoa
Vinh quy, bái tổ về nhà
Để thiếp trông thấy, thiếp hoà mừng thay
Công thiếp lo liệu bấy chày
Chàng đi ngựa thắm, thiếp nay võng đào
Thiếp sắm cho chàng một chiếc nhà cao
Bằng chín mẫu đất, bằng ba quãng đồng
Cột cái thăm thẳm vẽ rồng
Mượn ba vạn thợ, trả công đề huề
Thiếp đánh hòn đá xây hè
Thiếp cho xẻ núi Ba Vì về xây
Trên thềm ngựa chạy bảy ngày
Chung quanh lót ván cột tày gỗ thông
Gỗ mun đóng chiếc thuyền rồng
Cửa ngõ bằng đồng sáng lộn như gương.
Khuyên anh chăm chỉ nghề nho
Thức khuya, dậy sớm sao cho kịp người
Người ta được một, em muốn anh được mười
Học cho hơn người: tiến sĩ, trạng nguyên
Anh về cưỡi ngựa vua ban
Nhờ anh, em sẽ ngồi trên võng vàng
Cờ quạt hai hàng
Đẹp mặt mẹ cha.
Mảnh chồng quan bằng đàn chồng dân.
Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bỏ công trang điểm má hồng răng đen
Chẳng tham ruộng cả, ao liền
Tham về cái bút, cái nghiên anh đồ
Hay ăn đã có lương khô
Việc gì mà chẳng ăn no lại nằm
Dài lưng đã có võng đào
Tốn vải đã có áo bào vua ban.
Khuyên chàng đi học em vâng
Việc trong gia thất, việc đồng mặc em
Bút nghiên, giấy má đã mua rồi
Khuyên chàng đi học, em thời cửi canh
Nữa mai gia thất được thành
Bõ công anh học, bõ lòng em khuyên.
Mẹ già đã có thiếp nuôi
Trình anh đi học, chớ rời sách ra.
Đi đâu chẳng lấy học trò
Thấy người ta đỗ, thập thò mà nom.
Tuy nhiên, không phải lấy được chồng ăn học để được làm quan đem lại kiêu hãnh cho mình và gia đình là mục đích duy nhất của người đàn bà dân dã. Sự hiểu biết và tư cách lịch lãm của người có học thức cũng được thẩm định là xứng đáng với sự hi sinh của người vợ.
Dốc một lòng lấy chồng hay chữ
Để ra vào kinh sử mà nghe.
Ngọc bất trát bất thành khí,
Nhân bất học, bất tri lý.
Hoài lời nói kẻ vô tri,
Một trăm gánh chì đúc chẳng nên chuông.
Dặn con, con có nghe cho,
Chọn người quân tử, đói no cũng đành.
Chẳng tham vựa lúa anh đầy,
Tham năm ba chữ cho tày thế gian.
Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
Khuyên anh đọc sách ngâm thơ
Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu.
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Lấy chồng hay chữ như soi gương vàng!
Tóm lại, xã hội cổ truyền của Việt Nam, đặc biệt là xã hội suốt thời nhà Nguyễn, trong thực tế, tự phân chia ra thành hai tầng lớp: (1) tầng lớp giàu có, thượng lưu, và quan quyền ở vùng phố thị, và (2) tầng lớp bình dân ở vùng thôn quê. Quan điểm về quan hệ vợ chồng của tầng lớp (1) thường được thể hiện qua những đổi chác mang tính vật chất dựa trên một ý thức hệ hệ đẳng và uy quyền của Tống Nho, cướp đi tính nhân bản và phẩm giá của người đàn bà trong mối liên hệ giữa người với người. Mặt khác, khi ước muốn được lấy một người chồng có học với ý hướng muốn vươn lên vì sự hào nhoáng của danh giá và uy quyền qua vai trò tiềm năng của người chồng tương lai có thể đỗ đạt, làm quan, người đàn bà dân dã ở tầng lớp xã hội (2), vì bản chất và niềm tin cố hữu, đã chuyển tải, trong tiến trình vươn lên đó, một ý thức cách mạng về quan hệ vợ chồng đầy ắp tính nhân bản và công bằng xã hội do quan niệm về tình yêu, nhân nghĩa, thuỷ chung, và sự hoà thuận giữa vợ chồng mang lại.
Những giá trị nhân bản này không những đã phần nào có ảnh hưởng trong xã hội cổ truyền qua sự tiến hoá tiệm tiến nhờ những ngòi bút của các nhà văn tiến bộ, chẳng hạn như trong Tự Lực Văn Đoàn, mà khẩn thiết cần có trọng lượng đối với xã hội hiện đại vẫn đang còn mang nặng những nỗi đau của thời đại xưa, do đó, đòi hỏi giới trí thức và phụ huynh trong mọi gia đình phải có trách nhiệm và ý chí cương quyết cải tiến nền văn hoá của dân tộc Việt.
(Trong bài tiếp theo, chúng tôi sẽ mạn bàn về “Thực trạng về Quan hệ Vợ Chồng ở Vùng Thôn quê.”)
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
North Wales, Pennsylvania
Ngày 01 Tháng 10 Năm 2023