Tôi nhớ như in, lúc ấy là năm 1973, những năm chiến tranh tàn
khốc nhất, tôi vừa ra trường Võ khoa Thủ Đức. Là một sĩ quan bộ binh,
tôi được điều về công tác ở Tiểu khu Kontum. Quê tôi tận dưới An Giang
xa xôi, thế nên bước đầu tiên thật bỡ ngỡ ở phi trường Tân Sơn Nhất,
Sài Gòn, để chờ máy bay. Khi ấy là một buổi chiều thu, có những tia
nắng dịu dàng, bầu trời thật mát mẻ, trong xanh, những đám mây trắng
trôi hờ hững về phía xa mờ, tôi tình cờ gặp người bạn cùng khoá cũng
đang chờ máy bay ra vùng một. Ra tiễn người bạn này có cô em gái và
một cô bạn cùng đi, tôi được cô ấy giới thiệu cho tôi cô gái ấy, một
cô gái Huế khá xinh, dáng dấp dịu dàng hài hoà. Cô này học Cán sự điều
dưỡng ở Sài Gòn và đang được phân về công tác tại Hội An.
Ngay phút đầu tiên gặp gỡ, tôi như người mất hồn, tôi ngẩn ngơ không còn lý trí
để nhận định mọi việc quanh mình. Hình ảnh nàng đã choáng ngợp tâm tư
tôi, ghăm sâu vào trái tim tôi, cuốn hút tôi về một phương trời mê
đắm. Tôi nghĩ đời này kiếp này tôi không thể nào xa nàng. Tôi theo
nàng như một tín đồ mộ đạo. Tôi được vị sĩ quan trẻ phụ trách chuyển
vận cảm thông, ưu ái cho trễ chuyến bay thêm tuần nữa, Vậy là tôi hy
vọng sẽ được cùng nàng san sẻ nỗi lòng. Nhưng thời gian hơn một tuần
mà chúng tôi chỉ gặp được nhau có ba lần, ba lần ngắn ngủi., Một mối
tình trong trắng, chưa một lần nắm tay nhau nhưng tôi cảm nhận như vừa
tìm được một nữa của chính mình. Rồi cuối cùng chúng tôi đành phải
chia tay nhau với bao hứa hẹn, sẽ mãi mãi là của nhau trong cuộc đời,
nàng về nhận công tác ở Hội An, tôi đến Kontum, nhận nhiệm sở. Tôi
viết thư cho nàng nhưng nàng không nhận được mãi đến khi tôi viết đến
lá thứ bảy, tôi gửi một tờ giấy trắng, không viết chữ nào,chỉ ghi địa
chỉ trên bì thư khi ấy tôi mới nhận được hồi âm của nàng, nỗi vui mừng
làm sao kể xiết. Thì ra, sáu lá thư trước đã bị người khác nhận rồi huỷ
mất.
Từ đây tôi và nàng trao đổi tâm tình qua những cánh thư xanh nồng
cháy yêu đương, kể cho nhau nghe nơi làm việc và hứa hẹn bao mộng ước
về tương lại.
Đến năm 1975, biến cố đất nước xảy ra, tôi vào trại tù tàn binh ở
Thanh An, Thanh Giáo, Pleiku, nàng vẫn một lòng an ủi tôi cố gắng chờ
đợi ngày về. Rồi khoảng nửa năm 1976 chúng tôi mất liên lạc nhau,
những cánh thư đi mang bao hồi hộp, nhớ nhung nhưng vẫn bặt vô âm tín,
Tôi buồn rầu, khổ đau, cứ nghĩ rằng bây giờ mình chỉ là một kẻ sa cơ
lỡ vận, không còn xứng đáng với nàng nên nàng âm thầm chia tay, cuộc
đời là vậy, tôi hận đời, hận nàng…….Tuy trong tâm tư tôi nghĩ nàng
đã phụ bạc, nhưng mà tình yêu nàng thì như mỗi ngày một tăng, chẳng
giảm chút nào, tôi đau khổ, cố tìm việc làm để quên, quên đi mối tình
sâu đậm đã làm trái tim tôi tan nát, đau đớn tê dại
Thế rồi tôi lao vào công việc bận rộn suốt ngày, lòng tôi cũng
lắng dịu. Rồi tôi lập gia đình. Chúng tôi sống rất hạnh phúc nhưng
hình ảnh nàng cứ tái hiện trong tâm tưởng tôi nhất là mỗi lần có dịp
lên Sài gòn. Bỗng một hôm, khoảng năm 1986 tôi có việc đi Huế, trên
đường đi, mặc dù tôi luôn nghĩ giờ nầy chắc nàng đã tay bế, tay bồng,
nhưng sao lòng tôi cứ mãi bâng khuâng, nôn nao, trông cho mau đến nơi
nàng ở, mong sao sớm gặp được nàng, ” xem dung nhan ấy bấy giờ ra sao
“, đã hơn mười nằm rồi còn gì ? Qua thư từ ngày trước, tôi biết nàng ở
gần chùa Từ Đàm Huế, tôi tự dặn lòng dù phải lục tung xứ Huế, tôi cũng
quyết tim ra nàng, để nhìn cho rõ con người đã ôm cầm sang thuyền khác
Tôi mướn xe ôm đi, đi quanh co mãi cái xóm Từ Đàm, suốt hai giờ
đồng hồ, rồi tôi cũng tim ra nhà nàng. Đến nơi chỉ có em nàng, tôi hỏi
thăm nàng, em bảo
_ Anh chờ chóc lát, chị sẽ ra
Tôi chờ mãi với bao sự nóng sốt ruột gan, tôi nghi ngờ cô em sẽ đi
kêu chị ở nhà chồng về, nhưng cô em lại đi thơ thẩn ngoài sân, đến
khi tôi không thể nào im lặng được nữa, tôi hỏi cô em
_ Sao em nói nửa giờ chị sẽ ra mà lâu quá rồi không thấy
Đến lúc ấy, lúc ấy em mới bước vào nhà, từ từ vén bức màn bàn
thờ ra, tôi vụt đứng dậy, sững sờ, chết lặng, khoảng lặng mênh mông.
rồi vỡ oà tan tác Trên bàn thờ là ảnh nàng, chính ảnh nàng,
gương mặt đã làm cho trái tim tôi một thời say đắm… Tôi nhìn
nàng mà cõi lòng rưng rưng, đôi mắt rưng rưng, bồi hồi xao động, như
có vật gì nằm trong mắt, cay xè. Những cảm xúc không lời ào ạt, tiếp
nối, đan xen, những kỉ niệm về quá khứ năm xưa lại ùa về. Tôi nhìn vào
đôi mắt nàng trên ảnh, đôi mắt biết nói ngày nào giờ đã vô tri…. Rất
lâu sau, tôi nhờ cô em đi mua thẻ nhang, vì trên bàn thờ hết nhang,
nhưng không biết vô tình hay cố ý, hay nơi bán nhang ở xa mà em đi rất
lâu, bỏ lại tôi đơn đôc với di ảnh của nàng, tôi nhìn nàng không chớp
mắt, như cố thu hết những nét thuỳ mị đoan trang của nàng vào tận đáy
tim.
Tôi thắp ba cây nhang, cắm lên bàn thờ nàng, khói hương lan toả,
giữa không khí mờ ảo, tôi như thấy đôi môi nàng mấp máy, lay động,
trong mơ hồ như có tiếng vọng âm của nàng
_ Anh ơi! Nếu có kiếp sau chúng mình sẽ là chim liền cánh, cây
liền cánh nhé, anh nhé!
Tôi choáng váng trong hư ảo, mơ màng trong nỗi vắng ngắt, tôi có
cảm giác như nàng vừa mới mất hôm qua. Tôi câm lặng ngồi nhìn ảnh
nàng, nhưng trong tâm tư đang gào thét, hối hận vì đã nghĩ oan cho
nàng, tôi muốn nói cùng nàng, biết bao điều chưa kịp nói, để rồi giờ
đây quá muộn màng, tôi nhìn ra bầu trời chớm Đông, của xứ Huế, một
buổi chiều lạnh lẽo, âm u với những làn sương mờ mờ ảo ảo, tôi như
thấy bóng dáng nàng quang quẩn đâu đây. Tôi hẹn cùng cô em gái, ngày
mai lên núi Ngự Bình thăm mộ nàng
Sáng hôm sau, tôi đến cùng cô em, hai người vừa đi, vừa nói chuyện,
tôi được biết, nàng mất vì cơn sốt ác tính, mặc dù trong ngành y tế
nhưng không cứu kịp, trước khi vĩnh viễn ra đi mấy ngày, nàng đã lẩm
bẩm gọi tên tôi, tôi nghe mà lòng trào dâng bao nỗi ngậm ngùi xót xa.
trước mộ nàng tôi thắp nhang thì thầm
_ Lan ơi! Em có linh thiêng hãy chứng dám, anh về thăm em, hãy yên
nghỉ em nhé, mọi mối hoài nghi về em anh đã xoá sạch rồi, tha thứ cho
anh em nhé!
Giữa khoảng mông mênh của đất trời, xung quanh toàn là mộ, tôi nghe
như có tiếng gió xoáy, bao lá khô cuốn tròn, quanh tôi, tôi biết nàng
đang về, về chứng giám cho nỗi lòng hối hận của tôi, lòng tôi đầy ngậm
ngùi tiếc nuối, từ đây những đêm dài thầm lặng, hình ảnh nàng sẽ mãi
ray rứt trái tim tôi
Bỗng tôi nhớ đến bài thơ “Gửi người dưới mộ” của thi sĩ Đinh Hùng
Trời cuối Thu rồi em ở đâu
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm chốn mộ sâu…..
Tôi lưu luyến ngôi mộ đầy cỏ vàng chắng muốn rời xa, tôi ngồi bệt,
mân mê từng viên gạch, từng mảng xi măng, mơ hồ như có nàng bên cạnh,
đến lúc cô em giục lần thứ ba, tôi mới đứng dậy, lửng thửng bước, mắt
cứ nhìn ngoái lại, với bao nỗi vấn vương. Tôi biết lần thăm nầy cùng
là lần đầu tiên và lần cuối cùng, vì xa xôi quá, tuy tôi vẫn mãi nhớ
nàng
Hơn ba mươi năm sau, trong một bữa tiệc cùng những người bạn cũ,
ở phố núi mù sương, có những người bạn đã cùng tôi trên một chiến
tuyến năm xưa, những người bạn cùng chung số phận ở trại tù cải tạo
Thanh An ngày ấy, bên ly beer nồng ấm và bầu trời đầy sao khuya lấp
lánh, tôi bỗng nhớ về nàng, mối tình mà tôi tưởng đã tắt lặn theo
tháng năm, biến tan vào không gian hư ảo, bỗng nàng hiên về choáng
ngợp trong trái tim tôi, tôi nhìn lên không trung trong trẻo và mơ
màng thấy hình ảnh nàng đang đứng trên đài mây ngũ sắc vẫy gọi tên
tôi, tôi nhắm mắt lại và mường tượng hình ảnh thân yêu của nàng…{jcomments on}