Không biết tự bao giờ cái không giang mơ, thực đầy tình người của một bến sông tên là Bến My Lăng đến và lắng lại trong tôi…? Phải chăng một sáng nọ, khi tôi đang học lớp 10, ông anh họ tôi đang hí hoáy bên trong sổ tay bài thơ tựa là Bến My Lăng. Chữ Bến My Lăng anh viết bằng bút máy Trường Sơn, nét chữ thanh tao, mực xanh mờ dần rất nghệ thuật. Xa xa mấy bụi cỏ hoa đỏ li ti lã lướt …tôi thấy thinh thích; nhưng không biết mình thích nỗi gì?! chỉ biết khen anh: “Anh viết đẹp nhỉ”! Anh cười và hỏi – “Em biết bài thơ này của ai không?”. – Không- tôi trả lời gọn lõn. Thú thật với bạn đọc, lúc ấy tôi không quan tâm đến công việc của ba mình đâu. Hay là do đọc báo thấy nhiều người viết về Yến Lan với Bến My Lăng?… Rồi sau đó, tôi lại được nghe chị cùng cơ quan-người xứ Huế kể: – Bài thơ của ba em; trước đây, ở Huế, có một họa sĩ rất mê, anh đã thể hiện hình ảnh về cái Bến My Lăng ấy bằng bức tranh vô cùng nên thơ, lãng mạn. Bức tranh ấy hiện ở trong nhà một gia đình thuộc dòng giõi quan lại ở Huế.
Vậy, nó là cái bến nào ở quê – An Nhơn-Bình Định của tôi? Cái bến ấy có gì lạ, khiến bao người muốn tìm về để chiêm ngưỡng, thưởng thức!? Mỗi người mỗi vẻ cảm nhận, suy luận về cái bến ấy thật tinh tế và đáng yêu:
Nhà thơ Thanh Thảo thì nghĩ: “Bến My Lăng – hình như ở trong mơ, dưới ánh trăng bạc xám, ám ảnh trên Thành cổ Đồ Bàn. Có thể là một bến sông của một cô gái người Chàm, của một ông lái đò không tên, không tuổi, quên quá khứ, không nghĩ tới tương lai, ông lái đò của thời khắc hiện tại, của dòng sông trôi chảy. Bến My Lăng ở đâu? Có lẽ bến sông ấy chỉ có trong thơ Yến Lan, trong những tầng sâu nhớ quên của nhà thơ. Đừng giải thích, đừng định vị:
Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu”.
Ở đời đủ giàu như Thạch Sùng, thì cũng không qua được cái trăm năm đong đưa, như đùa, như thật “Chỉ những câu thơ còn xanh”. Yến Lan mãi còn Bến My Lăng của ông, cái bến riêng của linh hồn ông, với tiếng gọi đò tha thiết, tiếng gọi đò như đến từ cõi khác, từ một đời sống khác: ”Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách / Gọi đò-thôi, run rẫy cả ngành trăng”
(Trích trong BĐNS-21 “Nhà thơ của một bến sông” – Thanh Thảo)
– Còn Từ Quốc Hoài trong: “Yến Lan-cốt cách một đời thơ”:
Đã chắc chắn rằng “Độc giả Việt Nam biết đến Yến Lan trước hết với Bến My Lăng. Mười bảy tuổi, Yến Lan trình làng một thi phẩm mà chỉ riêng nó thôi đủ làm nên tên tuổi một thi sĩ. Vào năm nhà thơ ra đời (Bính Thìn 1916), cảnh nhật thực, nguyệt thực xảy ra nhiều vùng trên thế giới trong đó có Việt Nam. Cuộc đấu tranh sinh tử xóa bỏ ách nô lệ, giành độc lập cho xứ sở. Những sự kiện lớn lao ấy có sức chấn động trong ông, làm ông ý thức được tính chất vô thường của cuộc sống, cái đẹp, cái cao cả có thể bị xâm hại cần được bảo vệ.
Bến My Lăng là nỗi niềm khắc khoải về một quyền năng huyền nhiệm, khả dỉ mang lại hạnh phúc cho con người. Bến My Lăng giống như một giấc mơ. Một ông lão lái đò u buồn đợi khách trên một bến sông đầy trăng. Không có khách, ông thả hồn chơi vơi tận “bến trăng cao”, tự làm thanh bạch mình ở cái “bến trăng” trong tâm tưởng ấy. Chàng kỵ mã nhung y hào nhoáng, có vẻ một kiếm sĩ không phải là người khách mà ông lái đò mong đợi.
Ông lão vẫn say trăng đầu gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng…
Bài thơ khép lại một Bến My Lăng đầy trăng lạnh, và đã bao trăng ông lái buồn đợi khách.
Bài thơ có sức ám ảnh. Ngôn ngữ thơ nhẹ bổng như được chiếu sáng lung linh bởi ánh trăng huyền ảo. Nhưng cái tình của bài thơ thì rất thật. Chính cái tình ấy dã neo Bến My Lăng vào lòng người ngay từ khi mới ra đời.”
– Với Nhà N/C Văn học hiện đại, Khổng Đức-bạn của cha tôi, đã viết: Nói đến thơ Yến Lan là hình như người người nghĩ ngay đến bài “Bến My Lăng”. Bài thơ được tác giả thực hiện vào thuở 16, 17 tuổi (khoảng năm 1933). Xưa Hoài Thanh đã phê là:
… có cái không khí lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích…
Thật vậy, bài thơ có những đặc điểm: Ý thơ mới lạ không mô phỏng cổ nhân Đông Tây, nội dung là mô tả cảnh sông nước một đêm trăng, có một ông lái đò ngóng đợi khách sang sông, nhưng khi đợi thì không đến và khi khách đến thì người lái đò ngủ quên. Chữ, câu thơ vững chắc, hình ảnh tươi sáng… Nhưng thẩm thơ như thế chỉ là lướt qua hình thức và nội dung khác nào cởi ngựa xem hoa. Thưởng ngoạn thơ đúng nghĩa thì phải đào sâu hơn nữa, nghĩa là phải tìm hiểu do động cơ hay cảm hứng nào mà Yến Lan có bài thơ đó, muốn thế phải ngược thời gian đi vào thân phận cuộc đời trẻ thơ của anh vậy…
– Vậy kẻ hậu thế nghĩ thế nào khi đến với Bến My Lăng :
Đó là một tối, tôi vô tình bấm chọn kênh thì bỗng nghe MC Thanh Bạch đang nói tới bài thơ ở kênh HTV9 của chương trình Vầng trăng cổ nhạc. Anh dẫn khán giả đến với bài thơ bằng lời mở đầu: “Trong nền Văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ tả về trăng, nhưng bài thơ tả về trăng hay nhất là “Bến My Lăng” Và khi nói đến Bến My Lăng thì phải nói đến Yến Lan và nói đến Yến Lan thì phải nói về Bến My Lăng… “
Cảm nhận về “Bến My Lăng” còn nhiều lắm; nhưng với nội dung một bài báo, tôi không thể đưa hết vào được; có lẽ để các bạn tự tìm hiểu sẽ thú vị hơn.
Thế Bến ấy ở đâu nhỉ? Người ta nói với nhau rằng; nếu đi dọc hết các con sông trên đất Bình Định cũng không thể tìm ra một địa danh nào có tên Bến My Lăng. Cái Bến ấy chỉ là huyền ảo chỉ có trên thi đàn mà người đời không thể quên mỗi khi nhắc đến Y ến Lan-cha tôi. Chính cha tôi đã sáng tạo ra cái bến sông phi thời gian, phi không gian. Nó có thể là cái bến để đợi ai và ai đợi cũng không rõ nữa. Người yêu thơ ám ảnh bến như lá Diêu Bông, bến Cô Mưa trong thơ Hoàng Cầm. Bến My Lăng của cha tôi đã làm tốn khá nhiều giấy mực. Nó là một địa danh của biểu tượng thi ca mà th ôi.
Theo cha – đó chính là bến đò Trường Thi trên sông Cửa Tiền, cách thị xã An Nhơn-Bình Định nhà ông khoảng mấy dặm đường. Con sông chảy trước mặt Cửa Tiền là sông Tân An một chi lưu của sông Côn đổ ra đầm Thị Nại. Bên kia sông là xã Nhơn Hòa, bên này là xã Nhơn Hưng, thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Bến đò Trường Thi đẹp mà buồn đến nao lòng, nhưng nó đi vào lòng người như một niềm hoài niệm:
– Cái tựa Bến My Lăng, khiến bao người suy luận. Có người cho rằng, vì mê cô gái tên Lan (tức bà xã ông sau này) nên nhà thơ gọi chệch từ Mê Lan thành My Lăng. Một dịp may, nhân lúc cha đang ngâm: Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách…; tôi chen ngang, đòi cha giải thich. Và được cha kể vài nét sơ khai, thuần khiết sự ra đời bài thơ:
“Khi cha mới 6 tuổi. Cuộc sống nghèo khó đã cướp đi sức lực và tuổi trẻ của bà nội tôi. Lúc đó, bà ốm nặng lắm, không ăn được gì ngoài bánh canh tôm. Chợ xa, phải qua một lần đò. Chú bé 6 tuổi mua bánh canh về đứng đợi ông lái ở bờ bên này. Song, ông lái ngủ mất rồi chẳng nghe nổi tiếng gọi đò yếu ớt của bé. Bé sợ bánh canh nguội mẹ không ăn được, sợ trẻ chăn trâu chặn đánh đổ hết bánh canh, về mẹ mất ăn nên chú hối hả gọi ông lái đò – là cậu ruột chú, thường neo đậu ở bờ bên kia. Đôi bờ sông quá rộng, chú gọi vừa tha thiết, vừa giục dã, hối hả Cái tâm trạng ấy đã đi vào tìm thức của ba tôi từ khi ấy. Lớn lên, có thêm chút triếc lý, cộng với thực tế của cuộc sống, ông đã viết ra tiếng gọi đò đầy cảm cảnh “Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”; “Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách / Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng”.
Khi tôi hỏi về nghĩa bóng, cha cười, rằng: “Viết bài thơ này ba muốn nói về hạnh phúc của con người. Đời người, ai cũng có quyền mơ ước. Có người mơ về vật chất, tiền tài danh vọng. Có người chỉ mơ được sống trong một gia đình mà niềm vui được sẻ chia; rồi ông giải thích thêm nghĩa của hạnh phúc. Hạnh phúc là khi người ta ước gì được nấy, dù điều ước đó rất nhỏ bé. ví dụ: thằng Bờm, tài sản chỉ có cái quạt mo, gặp lúc đói quá, nó chỉ mơ đổi cái quạt c ủa nó lấy nắm xôi thôi; chứ đâu dám mơ đến ba bò chín trâu hay cao sang mỹ vị… Còn ông lái đò ở Bến My Lăng thì ước có khách, dù chỉ một người, để được làm cái nhiệm vụ của người lái đò đưa sang bờ bên. Thời phong kiến, ở bến sông này, người dân sống khổ lắm, họ không tiền để mua sắm. Bến sông lúc nào cũng đìu hiu, vắng khách. Ông lái đợi, đợi mãi mà chẳng ai quá bộ qua. Sự chờ đợi làm ông mỏi mệt, chán chường nên thả hồn bay mất đến độ mơ ước của ông đến trong tầm tay mà không biết. “Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã / Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly. Trong thời khắc chớp nhoáng ấy, ông lái đò đã để vuột mất niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình đã chờ đợi “Suốt cả bao trăng”
Đề cập đến cái triết lý của bài thơ, ba tôi thêm: “hạnh phúc không phải lúc nào cũng phụ thuộc bên ngoài. Hạnh phúc phải do tự bản thân mình tạo ra thì ta mới ý thức được nó đáng quí như thế nào và mới biết tôn trọng, gìn giữ nó. Đừng bao giờ chờ đợi người khác mang hạnh phúc đến cho mình. Không có điều ấy đâu; mà nếu có thì không bền vững bằng hạnh phúc do chính sự lao động mình xây nên. Người xưa đã dạy ta “Đừng há miệng chờ sung rụng”
Anh họ, con cô tôi – người mà ba đã có bài thơ “Khi chị đi lấy chồng” có vốn chữ Hán khá rộng, luận ra: Về chữ My Lăng; nếu viết đúng nguyên chữ là “My–bơ–lăng”. Còn viết theo chữ Nôm “My blăng: My nghĩa là lông mày có hình cong. “Quê ngoại tôi nằm trên khúc sông cong” hay
“Thuyền ai về đậu khúc sông eo” Còn chữ Blăng : theo Nôm là trăng.
Vậy chữ My Lăng có thể hiểu là “Bến sông trăng”.
Chẳng thế mà thơ của ba tôi chứa rất nhiều trăng. Ngay từ ngày mới lọt lòng mẹ, ông đã được ánh trăng vàng ngàn đời vây phủ, chở che.
Võng mẹ ru hời dưới mái hiên
Hương đồng cỏ nội-mặc, kề bên
Tôi nằm trong vũng ca dao lạnh
Đón những vầng trăng mẹ vớt lên.
Trăng đi từ tóc, đi vào máu
Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân,
Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá
Như má yêu môi, đến đến….gần
Tôi đã thành người mắc “bệnh trăng”
Chiều mây sớm nắng mỗi bâng khuâng
Chỉ riêng báo hiệu niềm vui đến
Khi ứng lòng đêm một ngấn hằng.
“Trích Bệnh trăng”
(Rút trong tập Mưa bay)
Ngày 31 tháng 3 năm 1985, đoàn làm phim tư liệu của nhà báo Thụy Kha về An Nhơn, có nhà thơ Thanh Thảo, nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo. Đoàn cũng có thắc mắc về cái bến trong tâm tưởng này. Nhà thơ Yến Lan đưa ngón tay gầy vẽ lên chiếu và giải thích như lời giải thích trên. Đoàn hiểu ra vì sao nhà thơ đặt tựa bài thơ là Bến My Lăng. Sau đó, bộ phim phát hành có tên “Yến Lan – Một bến sông trăng”
Xin giới thiệu bài thơ: Bến My Lăng
My Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn để gió lén mơn râu
Ông không muốn run người ra tiếng địch
chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao
vì đìu hiu, đìu hiu trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời nhưng chỉ rải trăng… trăng
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh
để đêm buồn vây phủ bến My Lăng
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng…
Nhiều người còn cho rằng, có một khía cạnh khiến mọi người, nhất là người Bình Định mê say bài thơ là do âm thanh mà nhà thơ đã khéo léo đưa vào đầy kịch tính, đậm tính nhân văn – đó chính là tiếng gọi đò tha thiết của chàng kỵ mã trong một đêm đầy trăng.
Theo sự hiểu biết rất hạn hẹp của tôi thì trong giai đoạn từ 1930 đến 1945 có hai bài thơ chứa đựng những âm thanh.
– Bài thứ nhất; chứa những âm thanh dồn dập “hối hả”, những âm thanh như oán trách, những âm thanh làm run rẫy cả ngành trăng – là tiếng gọi đò mãi mãi vang vọng trên “Bến My Lăng” của nhà thơ Y ến Lan:
“chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”.
– Bài thứ hai, là những âm thanh não nùng của hàng trăm con quạ, giữa đêm khuya đang ngủ, bỗng có tiếng động đã thức dậy cất tiếng kêu hoảng loạn, ầm ỹ. Những con quạ này, đập cánh ào ào trong đêm tối “bóng lẫn đêm khuya tiếng rộn ràng”. Tiếng quạ kêu thật rùng rợn, thật ấn tượng. Đó là tiếng quạ trong “Đêm thu nghe quạ kêu” của Quách Tấn. Cái tiếng của cả một bầy quạ kêu từ bờ tre trên sông Côn nằm trên chặng đường từ An-Vinh đi về Phú Phong đã gây cho Quách Tấn một ấn tượng mạnh mẽ làm cho cả đời ông nhớ mãi. Chỉ nghe tiếng quạ kêu mà ông đã viết một bài thơ đường rất nổi tiếng.
Nhưng, nếu so sánh tiếng quạ kêu của nhà thơ Quách Tấn với tiếng gọi đò của Chàng Kỵ Mã áo xanh của nhà thơ Yến Lan, thì nhiều người ưa tiếng gọi đò của Yến Lan hơn. Nó thể hiện sự độc đáo mà nhà thơ Yến Lan đã gieo vào lòng người đọc, khiến họ nhớ mãi về cái bến hoang tưởng trong hư vô của thị trấn An Nhơn không dứt. Khiến họ liên tưởng đến tiếng ếch kêu đã làm Tú Xương giật mình ngỡ là tiếng gọi đò trước đây
“Đêm nghe tiếng ếch bên tai/ giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò” ..
Tất thảy những điều đó đã khơi dậy một niềm tự hào về mảnh đất của quê hương Bình Định ở nơi sâu, tận đáy lòng nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Liễn, bằng 2 câu đối dưới dạng 4 câu thơ viết tặng nhà thơ Yến Lan
Bến My Lăng, bến ấy ở đâu?
Trời tĩnh mịch, trăng rơi vàng, thuyền đợi khách
Đất Bình Định đất này lạ nhỉ!
Rượu ân tình, hoa tư tưởng – xứ lên men./.
{jcomments on}