* Thi sĩ Yến Lan bên mộ nhà thơ Bích Khê
Trích hồi ký: Về người cha thi sĩ
Theo sự hiểu biết hạn hẹp và qua những bức thư của bác Quách Tấn gửi cho ba, tôi đọc thấy, xin chia sẻ để các bạn hiểu thêm về “cái nôi thơ” mà người đời thường tâm đắc “Bình định là đất võ mà ẩn chứa trong mình những bí ẩn về văn chương”
Có một bức thư trong số nhiều bức, bác Quách Tấn viết rằng:
Nha Trang lập xuân 1988
Chú Yến Lan,
Cách đây 1 tuần tôi có gởi ra chú 1 bức thư nói về Trường thơ Bình Định. Chú nên cho ông Thu Hoài biết rằng không có Trường thơ Bình Định, chỉ có Trường thơ loạn của Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan mà thôi! Trường thơ này không thể thành Trường thơ Bình Định được. Bình Định chỉ có một nhóm gồm 4 thành viên mà các bạn yêu thơ do Trần Thống ở Kiên Mỹ đại diện, gọi là Bàn Thành Tứ Hữu. Nhóm thơ gồm có: Hàn, Chế, Yến, Quách. Bốn bạn này mang tên một con vật trong bộ Tứ Linh. Hàn là Rồng, Chế là Phụng, Yến là Lân, Quách là Rùa-
Đó là cách so sánh lý thú và khá phù hợp với tính cách từng người. Lại một điều lạ nữa, tuy nhóm giao du rất rộng, nhưng không mở rộng, trước sau chỉ có bốn người. Khi Tử mất thì Bích Khê thế vào”
Tôi đã viết một bài nói về nhóm thơ Bình Định vừa vui vừa nói lên được phong độ và sắc thái của thơ Tiền chiến Bình Định-Đó là từ 1930 đến 1945, từ 1945 đến 1985 trừ Tử và Khê đã mất, kẻ còn lại đều hoạt động đều đặn.
Bích Khê và Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 mất vào ngày 11.11. 1940; quê Quảng Bình, nhưng sống và qua đời tại Qui Nhơn- Bình Định. Đã xuất bản tập thơ “Gái quê” 1936
Bích Khê sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông là con thứ chín trong một gia đình nho học yêu nước, có ông nội là Lê Trọng Khanh đỗ Cử nhân năm Tự Đức thứ 21 (1868), làm quan đến chức Viên ngoại lang Viện cơ mật.
Năm 1935, khi còn ở Phan Thiết, Hàn Mặc Tử quen cô cháu gọi Bích Khê bằng cậu. Từ sự đam mê thơ Tử, cô đem khoe với cậu và ngược lại lấy thơ cậu cho Tử xem. Ban đầu, người này đọc thơ người kia, không ai phục ai. Đến khi, đọc “Hương thơm và mật đắng” c ủa Tử thì Bích Khê đã thốt lên:
“Hàn Mặc Tử đã đi trước ta quá xa, đây hẳn là thiên tài!”.
Còn Tử, đầu năm 1938 được Bích Khê gởi tặng ba bài thơ “Thi Tứ”, “Ảnh ấy”, “Thời gian” liền nhận ra ở Bích Khê một tài năng thơ hiếm thấy, khiến người đọc đê mê da diếc. Hàn liền biên thư để khích lệ bạn làm được bài nào gửi ra bài ấy. Song, Hàn thất vọng, vì không chọn được bài nào trong số đó, bèn trả lại kèm thư chọc quê Khê, cốt để bạn tự ái mà viết hay hơn.
Quả nhiên, sau khi đọc thư Hàn; Bích Khê trút giận vào các tập thơ, xé nát không chút luyến tiếc. Cơn giận lui, Bích Khê tự thách thức: “Trong sáu tháng sẽ trở thành một thi sĩ phi thường, bằng không, sẽ không bao giờ làm thơ nữa.” Nhưng, chỉ ba tháng sau, một khát vọng sống, khát vọng yêu và khát vọng thi ca đã làm cho nguồn thơ vô tận từ trái tim Bích Khê tràn ra đầu ngọn bút. Ông hoàn tất đúng như ý nguyện; mỗi chữ, mỗi câu thơ đều thể hiện tình yêu đôi lứa mạnh như bom tấn; chân thật mà lãng mạn, mãnh liệt mà không sáo rổng, mang sắc thái của dòng thơ mới, rất lạ và độc đáo. Áng thơ chất chứa cả tinh huyết, dung mạo của ông qua bao đêm miệt mài, vì thế ông phờ phạc, tóc ở thái dương bạc trắng! Ông gửi vào cho Hàn. Quả nhiên, sau khi ngốn hết tập thơ, Tử không có chỗ nào để chê bạn được nữa. Bằng sự trân trọng và ngưỡng mộ, Hàn viết lời tựa tập thơ:
“Một bông hoa lạ nở hương, thứ hương quí trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc”.
Sau đó Hàn giới thiệu Bích Khê với nhóm “Tứ Linh”
Bích Khê đến với Hàn, lúc Hàn đang mang căn bệnh quái ác, nhưng Tử không thấy mặc cảm với Bích Khê, vì Khê đối xử với Hàn quá ư triều mến, chân thành: như nắm tay, ôm choàng bạn mỗi khi gặp Tử. Một cử chỉ không thể có, ngay cả với người thân trong gia đình, làm mềm lòng Tử.
Thật tiếc! đôi bạn tài hoa và nặng tình ấy, gần nhau chưa tới ba mùa xuân thì Tử bị gom vào nhà thương Qui Hòa. Thương nhớ bạn, Bích Khê viết bài “Hàn Mặc Tử” được bác Quách Tấn và chú Chế cho là giai tác. Bài thơ chưa kịp đến an ủi Tử, thì Bích Khê nhận hung tin Tử qua đời. Thơ nhớ thành thơ điếu bạn.!
Bích Khê Với Quách Tấn:
Năm 1941, qua giới thiệu của Tử, Bích Khê đến Nha Trang tìm gặp bác Tấn. Duyên cớ gì mà mới gặp lần đầu hai người như đã biết nhau từ lâu. Nhà bác Tấn lúc đó là điểm hẹn văn hóa; các văn sĩ tứ xứ, ai đến đây nghỉ chân đều gửi lại Trường Xuyên (bút hiệu Q. Tấn) văn, thơ và bản thảo. Vì lẽ đó, Bích Khê đã lưu lại đây một thời gian
dài để nghiền ngẫm, nghiên cứu và giao lưu cùng bạn văn chương…
Từ nơi này, Bích Khê đã tiếp thu những tinh hoa của thơ Đường nhờ bác Tấn – nhà thơ đường cuối cùng của thế kỷ XX. Và cũng từ nơi này Bích Khê tiếp cận cả nền văn học Đông-Tây-Kim-Cổ. Đặc biệt hầu như toàn bộ những tác phẩm của Hàn, Yến, Chế đã xuất bản, đều có trên giá sách nhà này. Tuy bệnh tình hành hạ nhưng Bích Khê gắng lưu lại để mong gặp những người mà Hàn đã giới thiệu.
Bác Tấn rất nặng lòng với Bích Khê. Nhìn Bích Khê lâm bệnh hiểm nghèo, ông lặng lẽ đi tìm thầy, tìm thuốc về nhà chửa cho bạn. Ít lâu sau, thấy bệnh mình không giảm, ông sợ phiền bạn nên tạm biệt để về quê. Bác Tấn khuyên ông hãy ở lại thành phố chửa khỏi bệnh rồi hãy về, nhưng Bích Khê vẫn một mực từ chối.
Thời loạn lạc đến, bác Tấn tản cư về Trường Định. Ít tháng sau thì nhận được tin Bích Khê qua đời, thương bạn bác viết :
Ngắm vội trời Thiên Ấn
Cố Nhơn ơi cố nhơn
Bóng theo Hàn Mặc Tử
Tâm gửi Ngũ Hành Sơn
Danh vọng đài mây vút
Anh Ba biển sóng dồn
Đã hay nghìn tuổi thọ
Thương nhớ lụy đói cơn.
Bích Khê Với Chế Lan Viên
Năm 1937, Chế Lan Viên nổi tiếng trong cả nước với tập thơ “Điêu tàn”. Bích Khê sửng sốt thốt lên rằng “cậu bé này quả nhiên là một thần đồng”, ông tìm cách gặp Chế.
Người ta bảo thơ Chế và Khê giống nhau; có cùng tâm thức và thịnh tình với các nhà thơ phương Tây như Valery, Bauderlaire, Edga.
Lúc Bích Khê đang điều trị ở viện bài lao Pasquier, nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình ra thăm bạn. Khi chia tay, Bích Khê buồn bã nói qua làn nước mắt: “Bao giờ mình gặp lại nhau nữa! mà chắc gì chúng ta còn có dịp để gặp lại ?!
Cuối năm 1943 Bích Khê gửi tập “Tinh hoa” vào Nha Trang, nhờ Chế đề tựa sẵn, chờ có tiền sẽ xuất bản. Chú Chế nhận lời, đọc hết tập thơ. Một cảm giác lạ như có dòng điện chạy qua sống lưng, cảm giác hiếm hoi ở Chế khi đọc thơ bạn, mà bấy giờ chú đã dành những lời châu ngọc để ca ngợi về tài thơ của Khê, đã viết sẵn lời tựa. Song, cuộc đảo chính của Nhật hất Pháp; chiến tranh bùng nổ; cảnh ly biệt, Chế đành gác lại.
Rồi, Bích Khê qua đời! món nợ với người quá cố đeo đẳng mãi trong Chế.
Đến năm 1987, bạn văn và gia đình Khê đã cất công tìm và tập họp di cảo của Bích Khê giao lại cho chú Chế. Nhờ vậy, chú đã hoàn thành việc mà Bích Khê ký thác hơn nữa thế kỷ qua…
Bích Khê Với Yến Lan
“Tiền và Hậu Ngũ hành sơn” là hai bài thơ nổi tiếng của Bích Khê được Chế Lan Viên đánh giá cao hơn bài “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp. Nhà thơ Nguyễn Đình chép được khi cùng Chế đến thăm Bích Khê tặng lại cho ba tôi – nhà thơ Yến Lan.
Xem thơ, ba tôi rất phục tài và mến mộ Bích Khê, ông mong có ngày gặp được bạn để tỏ tường.
Một chiều thu, ba tôi đang trầm tư trước tờ giấy kẻ ô vuông với những câu thơ đang làm dở. Đột nhiên, một thanh niên xuất hiện với chiếc túi nhỏ trên vai. Tuy chưa xưng danh, nhưng ông nhận ra người lữ khách giang hồ gầy guộc, nước da xanh, thoảng húng hắng ho là tác giả những vần thơ:
Kim, Mộc, Hỏa, Thổ lạy
Trên, dưới, đất, Trời chầu
Ông mừng rỡ, đỡ túi trên vai bạn rồi, đưa vào gian nghĩa tự chùa-nơi trước đây đã gặp Hàn Mặc Tử và Nguyễn Công Hoan. Bích Khê lúc này trông rất mỏi mệt. Vì vậy ông chỉ ở lại với ba tôi vài ngày rồi cáo lỗi vào Nha Trang để tìm thầy chữa bệnh. Biết bạn đang mang bệnh hiểm nghèo (lúc đó bệnh lao là một trong ba loại bệnh khó chữa), ba tôi nghĩ chắc bạn cần giúp đỡ, nên sau khi tiễn bạn ra ga xe lửa, ông sắp xếp công việc ở chùa rồi vào Nha Trang để gặp bác Quách Tấn, bàn cách giúp Bích Khê.
Trên Báo Kiến Thức Ngày Nay số 206/ 20-4-1996, bài viết: “Tiếng gọi đò trên Bến My Lăng” do Tô Đình Tuân thực hiện. Và trong bài “Từ Bến My Lăng-ph át thảo chân dung Yến Lan” của nhà văn Võ Văn Trực trên VN.7 tháng 6/1991 có sự sẻ chia của ba tôi:
“Tôi quen Bích Khê khi anh lâm bệnh nặng. Lúc đó tôi dạy học cho trẻ em hàng xóm kiếm sống. Tôi thương Bích Khê và phục tài anh lắm. Tôi bàn với Quách Tấn đưa Bích Khê vào Nha Trang tìm cách nuôi nhau. Chúng tôi góp tiền thuê một nhà nhỏ ở phường Củi cho Bích Khê. Ở Nha Trang được một thời gian ngắn, Bích Khê bỏ ra đi, chúng tôi chia nhau tìm, nhưng không thấy. Sau đó, chính Nguyễn Đình đã vô tình gặp lại Khê. Bọn tôi, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình lại bàn đưa Bích Khê ra Huế chữa trị, an dưỡng. Về kinh tế tùy theo hoàn cảnh từng người giúp Bích Khê. Tôi chưa vướng bận vợ con, mỗi tháng góp 30đ, Chế Lan Viên phải nuôi cha mẹ già và hai chị, góp 10đ, Nguyễn Đình 20đ, Quách Tấn có vợ, con đông, góp 20đ. Chị Tấn đảm nhận việc thu rồi gửi ra tận viện Pa-ski-ê cho Bích Khê.”
Một thời gian sau, tôi nhận được phong thư viết bằng bút chì. Ngoài bì thư đề:
Kính gửi : Ông Yến Lan
Yến Lan!
Mình rất cảm ơn cậu và các bạn đã chăm lo cho mình. Bây giờ mình không còn chịu đựng được nữa, mình đành vĩnh biệt cuộc sống, vĩnh biệt bạn bè!”
Ký tên
Bích Khê
Sở dĩ tôi trích bài báo này để minh chứng bài viết của tôi là có cơ sở “nói có sách, mách có chứng,” vì trong hồi ký của bác Tấn không có từ nào nói về điều này. Mà đây là vấn đề rất nhạy cảm. Gia đình ông khá giả, bà con đông hà cớ gì các bạn văn của xứ Nẫu lại phải chăm lo, đóng góp để nuôi Bích Khê như đã kể trên. Ba tôi là người trọng danh dự, không nhận những gì không phài mình làm ra hoặc chưa làm mà kể công …
Và tôi tin ờ cha mình đã làm như lời ông tâm sự ./.{jcomments on}
Ôi, xuất phát từ lòng nhân hậu vốn có hay từ nền giáo dục đương thời mà các thi sĩ tiền hối trong nhóm Bàn thành tứ hữu đã ” thương nhau vì nết, trọng nhau vì tài” và chăm lo cho bạn đến vậy. Ngày nay hiếm thấy có tình bạn như vậy kể cả giữa những người gọi nhau là đồng chi!
Thật cảm phục tấm lòng của các nhà thơ thời ấy, thương yêu đùm bọc , giúp đỡ bạn bè khi đau ốm.
Cám ơn chị Lâm Bích Thuỷ.
Thói thừơng khi còn nghèo khổ người ta sống với nhau bằng cái tình.
Khi giàu có rồi tiền tài vật chất lấn át hết mọi thứ, người ta quen được chiều chuộng, tâng bốc nên thường xem nhẹ nghĩa tình.
Chị Bích Thủy cảm ơn các em dù đã khuya mà vẫn xem bài viết mà để lại lời nhận xét rất tinh tế. Trong nhận xét của các bạn: NOK, Quốc Tuyên, HN.Tín có gì đó rất thâm thúy về cuộc đời giửa thời xưa và nay.
Đúng vậy, NOK, thời xưa các cụ chịu ảnh hưởng của nền giáo dục mang thuần phong mỹ tục và tình người… Còn HN.Tín ơi, bây giờ người ta dạy con cái sống thật thành địu, sang trọng… nên lớp trẻ có bản tính là Đa Vô mà tiểu Hữu: Vô tình, vô lo, vô nghĩ, vô lễ…
Cái tình người ngày xưa ,tình bằng hữu của các nhà thơ cùng thời …ngày xưa thật đáng quý ! mình thật cảm phục! Cám ơn bài viết của chị LBT thật sâu sắc!
Mình cũng cảm ơn Trần Kim Loan đã có nhận xét thật chân tình.
Chúng mình có lẽ ko làm được như các cụ, như ông BK ôm, cằm tay ông Hàn khi ông bị cái bệnh quái ác đâu em nhỉ
Mình cũng cảm ơn Trần Kim Loan đã có nhận xét thật chân tình.
Chúng mình có lẽ ko làm được như các cụ, như ông BK ôm, cằm tay ông Hàn khi ông bị cái bệnh quái ác đâu em nhỉ
Đọc “Nhà Thơ Bích Khê” và nhìn tấm ảnh qua nét mặt “Người ngồi bên mộ”, toát lên cái tình “bằng hữu”, thật cao quý của Nhóm Bàn Thành Bình Định xưa, thật xúc động!
Bài viết gợi nhiều điều gẫm suy về tình người, tình bạn, cho dù chúng ta đang sống trong một cuộc sống đầy vật chất hiện đại,nhưng tình yêu thương hình như đang tụt dốc, bởi xô bồ, vô cảm…
Cảm ơn chị LBT về bài viết nhé!
Ngọc Thơ nói sao mà đúng thế! Thế kỷ 21 tình người đâu còn như xưa. Ngay con cháu nhà mình nó cũng bị xã hội hóa rồi em ơi. Chúng thật vô tâm, vô lo, vô nghĩ; chỉ biết dựa vào người khác ko có ý vươn lên, ko thương ai ngoài bản thân chúng…..
Cảm ơn lời chia sẻ dễ thân thiện của bạn
Chị Lâm Bích Thủy thật giàu tư liệu nhất là về người cha đáng kính với chung quanh cuộc sống của ông cùng bạn bè cùng thời cuộc. Một nguồn cảm hứng vô tận khi có người con gái mang gen di truyền dòng máu thơ văn của cha mình .
Tình nghĩa bạn bè thời xưa thật đáng trân quý .
Cám ơn chị về bài viết: Nhà Thơ Bích Khê – Trong Vòng Tay Thi Hữu Xứ Bình Định.
“Tôi quen Bích Khê khi anh lâm bệnh nặng. Lúc đó tôi dạy học cho trẻ em hàng xóm kiếm sống. Tôi thương Bích Khê và phục tài anh lắm. Tôi bàn với Quách Tấn đưa Bích Khê vào Nha Trang tìm cách nuôi nhau. Chúng tôi góp tiền thuê một nhà nhỏ ở phường Củi cho Bích Khê. Ở Nha Trang được một thời gian ngắn, Bích Khê bỏ ra đi, chúng tôi chia nhau tìm, nhưng không thấy. Sau đó, chính Nguyễn Đình đã vô tình gặp lại Khê. Bọn tôi, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình lại bàn đưa Bích Khê ra Huế chữa trị, an dưỡng. Về kinh tế tùy theo hoàn cảnh từng người giúp Bích Khê. Tôi chưa vướng bận vợ con, mỗi tháng góp 30đ, Chế Lan Viên phải nuôi cha mẹ già và hai chị, góp 10đ, Nguyễn Đình 20đ, Quách Tấn có vợ, con đông, góp 20đ. Chị Tấn đảm nhận việc thu rồi gửi ra tận viện Pa-ski-ê cho Bích Khê.”(LBT)
SS thật cảm đông và phục cái tình thân hữu của các nhà thơ tiền bối. Cảm ơn chị LBT đã cho G/Đ HX cùng đọc những bài tư liệu này. Chúc chị luôn vui khỏe
Chào Lâm Câm Ái và Sông Song. Khái niệm về cái sống và cái chết đã cho con người hiểu rằng Tiền có thể mua được nhiều thứ nhưng tình yêu thương thì ko. Các cụ xưa hiểu hơn chúng ta về điều đó, tuy nghèo nhưng lòng họ rộng.
Sở dĩ chi BT có nguồn tư liệu dồi dào về cha mình là vì khi phải
đặt bút viết HK về ông chị phải xem di cảo, tư liệu…mà suốt hơn 60 năm cầm bút ba chị đã để lại, tuy ông không có một dòng HK nào nói là mình làm thơ như thế nào.
Những tư liệu mà chi viết ra đây cũng là giúp cho những người khi làm đề tài về ba chị dỡ phải vất vả tìm kiếm, vì trước đây, nhiều cháu học sinh được phân công viết về nhà thơ YL đã ngược xuôi tìm kiếm mà ko có!
Cảm ơn các bạn đã phúc đáp những lời tâm huyết trên. Chị rất vui.
“Ông mừng rỡ, đỡ túi trên vai bạn rồi, đưa vào gian nghĩa tự chùa-nơi trước đây đã gặp Hàn Mặc Tử và Nguyễn Công Hoan. Bích Khê lúc này trông rất mỏi mệt. Vì vậy ông chỉ ở lại với ba tôi vài ngày rồi cáo lỗi vào Nha Trang để tìm thầy chữa bệnh. Biết bạn đang mang bệnh hiểm nghèo (lúc đó bệnh lao là một trong ba loại bệnh khó chữa), ba tôi nghĩ chắc bạn cần giúp đỡ, nên sau khi tiễn bạn ra ga xe lửa, ông sắp xếp công việc ở chùa rồi vào Nha Trang để gặp bác Quách Tấn, bàn cách giúp Bích Khê”
Cảm ơn chị Lâm Bích Thủy với bài viết rất sâu sắc và giàu tư liệu về người cha đáng kính đối với bạn bè lúc ốm đau khó khăn cần được thương yêu giúp đở thật đáng trân trọng.
Chúc chị sức khỏe hạnh phúc nhé.
Chẳng lẽ mèo khen mèo chớ người BĐ tấm lòng bao la chơn chất nhứt nước đó.
Bài viết thật cảm động. Tình bạn của những thi sĩ Bình Định trong bài viết thật đáng trân trọng và đáng học tập .Cám ơn chị LBT.
Ba bạn KimChiHoang, Lẫn Thẫn, NguyễnTiết thân mến! Sách sử nhà Nguyễn cũng đã nhận xét rằng: Người Bình Định chăm học, cần mẫn, hay giúp đỡ người khác…” Chúng ta là người Bình Định thật đáng tự hào nhỉ. Mình cảm ơn và mong rằng lời chúc của các bạn sẽ thành sự thật với mình .
Cám ơn chị LBT viết về nhà thơ BK thật cảm động về tình bằng hữu của các nghệ sĩ .
Dạ Lan ơi, thế kỷ 21 này cũng có nhiều người lương thiện và tốt bụng lắm em ạ. Em cứ xem mục-Địa chỉ cần giúp đỡ sẽ thấy những người Việt xa quê hương đã nhiều năm, mặc dù bận rộn mưu sinh, nhưng lòng vẫn luôn hướng về những mảnh đời bất hạnh…và cả người nước ngoài đã gửi tiền giúp đỡ những cảnh đời thương tâm…
Cảm ơn em.
Chị Lâm Bích Thuỷ ơi các thi sĩ thời xưa, vừa tài hoa vừa có tấm lòng trong sạch và thanh cao. Lớp hậu sing chỉ biết nghiêng mình kính phục.