Người bạn gái của cha

Nhắc đến những người bạn thân thiết của ba tôi, nếu không nhắc tới cô Châu Thị Hạnh là thiếu sót lớn đối với người phụ nữ đáng kính này. Bởi lẽ, đây là người con gái đã để lại trong lòng ba tôi những dấu ấn khó quên. Đặt biệt hơn, cô chính là người đã tài trợ cho chuyến đi ra Huế; để rồi từ Huế ba tôi đã mở màng cho sự ra đời  thể loại kịch bằng thơ đầu tiên của nền văn học Việt Nam – là vở kịch thơ “Bóng giai nhân”.

Cô chính là vợ ông Hoàng Phê, giáo sư, Nhà nghiên cứu ngôn ngữ và giảng dạy tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Mẹ của ông Phê là người đã chăm sóc ba tôi hơn một tháng, khi ông bị thương trong trận máy bay Pháp oanh tạc ở Thiết Đình Bồng Sơn

Trước khi lấy ông Hoàng Phê, cô là người mà vợ chồng nhà thơ Đông Hồ- Mộng Tuyết muốn tác hợp cho ba, khi ông vào Hà Tiên thăm họ.

Cô là người phụ nữ khiến ba tôi vô cùng ngạc nhiên về tấm thịnh tình đối với bạn bè. Thư gửi nhà nghiên cứu Văn Học hiện đại-Khổng Đức ba tôi viết:

“Kỷ niệm về Hà Tiên thì nhiều lắm và là cả một trời tình cảm. Người bạn gái – người tôi viết ở mấy dòng đầu nơi bài hồi ký “Chiều chiều mây kéo về kinh” gửi Chế Lan Viên sáng nay. Đó là câu chuyện thuộc về tâm lý kỳ lạ và độc đáo, cho đến bây giờ tôi cũng chưa hiểu ra sao, một con người tốt tuyệt vời và cũng lãng mạn tuyệt vời. Thong thả tôi sẽ kể lại vài nét cho anh rõ. Đó là nguồn thơ tôi viết ra mấy bài: Sầm Sơn và Ca Thương của Trống Mái…

Thôi xin dừng bút. Thư đã quá dài và hơi bận rộn.”

Kể lại sự gặp gỡ ban đầu với cô Hạnh, ba tôi cho biết:  Lần vào Sài Gòn thăm ký giả Lê Tràng Kiều, rồi theo ông này lên Hà Tiên thăm vợ chồng nhà thơ Đông Hồ – Mộng Tuyết. Bác Tuyết chơi thân với một cô gái, quê ở Hội An; làm nghề hộ lý cho một Nhà Hộ Sinh  Trong thời gian lưu lại ở đây, bác Mộng Tuyết muốn ghép đôi cô cho ba. Bác tế nhị né đi để tạo cơ hội cho hai người làm quen. Qua lần gặp gỡ ban đầu hai người đều tỏ ra có cảm tình lẫn nhau. Cô Hạnh thì hâm mộ tài thơ của ba, còn ba thì thích tính tình hiền lành, chăm, ngoan của cô.

Lãng mạn làm sao, lần đầu tiên gửi thư cho ba, không rõ địa chỉ, chỉ nghe phong phanh là anh ấy đang sống ở chùa Ông – Bình Định. Vậy là cô mạnh dạn cứ thử gửi thư ra, ngoài bì thư đề đại rằng:

Kính gửi: Thi sĩ Xuân Khai

Ở chùa Ông Bình định.

Ấy thế mà thư cũng đến tận tay người nhận.

Trong sinh hoạt thường ngày, đôi lần nghe ba nhắc về trường hợp cô cho các bạn văn: “Đó là người con gái có tâm hồn kỳ lạ…” Lúc đó, tôi không để ý, đến khi ông mất, lục tài liệu, thấy có xấp thư dày cộp, cùng một nét chữ. Người gởi là Châu Thị Hạnh. Tôi tò mò, xem thử một bức; thư cô viết đậm tình, trẻ trung, chân thật khiến tôi không dức ra được, tôi ngồi bóc hết lá này đến lá khác, đọc hết

Năm 2001, khi giúp má tôi hoàn thiện hồi ký “Yến Lan, nhớ mãi về anh”, tôi sực nhớ đến những bức thư của cô, hy vọng qua cô, sẽ có thêm tư liệu về cha khi hai người quen nhau, để hồi ký thêm phần hấp dẫn. Gửi thư cho cô tôi tha thiết khẩn cầu:

“Cô ơi! chép cho cháu vài bài thơ mà ba cháu tặng cô thời hai người mới quen. Cháu đang giúp má viết hồi ký về ba. Cô sẽ là một nàng thơ trong hồi ký của cháu nhé”. Song cô hồi âm bằng lá thư, chữ viết khó xem và không thẳng hàng:  

Hà Nội, ngày 18 tháng 2 năm 2001        

Cháu Bích Thủy thân mến, cô xin cảm ơn cái thư của cháu! Viết hồi ký về ba mà có những tên người bạn của ba cháu là hay lắm, hồi ký thêm phần sinh động, thế mà cô không đáp ứng yêu cầu của cháu được. Cô xin cháu! Cô tha thiết đề nghị cháu đừng để tên cô vào một bài nào của cháu viết về ba cháu. Mấy lý do cụ thể:

1. Cô chỉ là người đọc và thích thơ của ba cháu. Đọc mà còn nhiều bài chưa hiểu. Cô không biết gì về thi tứ thì làm sao là bạn của nhà thơ như nhà thơ Yến Lan nổi tiếng trên các báo…

2. Ba cháu có tặng cô bài nào đâu! Có bao giờ nhắc tên cô đâu! Hãy làm theo ý ba cháu.

Cách đây năm sáu chục năm, cái tuổi sắp bước vào đời. Cuộc sống chưa biết gì về đời mà ba cháu đã gửi cho cô 3 tập giấy vở học trò với rất nhiều bài thơ với một lời dặn: “Chia nhau cất giữ vì sắp chiến tranh! Con người sẽ mất còn thơ sẽ sống mãi với đời”. Thế mà cô không giữ được vì cô không biết cách giữ, vì chạy bom trong kháng chiến 9 năm đã mất hết rồi. Năm hòa bình cô mới ở Việt Bắc về (1956 – 1957) cô nhớ không chính xác. Có anh bạn của ba cháu, nhà văn Nguyễn Đình (đồng hương với cô) gặp cô và kể chuyện có biết ba cháu. Cô nhờ anh Đình nói giúp với ba cháu: “Cô tạ lỗi là không giữ được mấy tập thơ đó”.

3. Trước 1945 làm được bài thơ nào ba cháu gửi ngay cho cô, lúc ấy cô chuẩn bị đi kháng chiến, cô có báo cho ba cháu. Ba cháu chỉ viết lại có mấy câu: “Chắc là không còn gặp nhau, khi nào ốm đau thì nếu có thể hãy tìm gặp nhau”.  Năm 1996 cô mới biết ba cháu ốm. Cô đã viết thư vì chắc chắn là không đi thăm được! Ba cháu trả lời bằng 4 câu thơ:


Cái hẹn năm xưa đã lỡ rồi

Để trong chờ đợi nóng lòng ai

Tay bưng thuốc đắng nhìn xuyên chén

Năm tháng còn trên mấy đốt tay

Hẹn (3/1972)

Chữ “Cái hẹn” của ba cháu tuyệt vời không phải lời hẹn ước của nam nữ, cũng không phải câu hò hẹn mà là cái hẹn không có ngày, cái hẹn khi ốm đau. Đúng là giọng và lời của một nhà thơ lão luyện! Mà là nhắc lại cái ngày xa xưa ấy cách đây 1/2 thế kỷ. Trong bài “Độc ẩm”:


Uống ngụm đầu tiên những ước mong

Đưa mình trở lại chốn Tô Thành

Hồ Đông tưởng cạn từ năm ấy

Với chén trà chuyên kết ban đầu

Chữ tưởng cạn ba cháu dùng câu dùng chữ thì không ai giống được. Tính cách bộc lộ là rất muốn ngao du với thiên hạ, gặp lại cảnh cũ, bạn xưa chưa quên vì nước Hồ (tức tình bạn của nhà thơ Đông Hồ – Mộng Tuyết NV) chưa cạn. Ba cháu có một nội tâm rất cao thâm, quên mình mà chỉ sống với thơ ca, kín đáo, thầm lặng không thích ồn ào, không thích dùng chữ “to lớn”.

Một lần nữa xin cảm ơn cháu và thiết tha đề nghị đừng viết tên cô vào đâu hết.

Thân ái gửi thăm gia đình cháu.

Năm tháng trôi qua, mỗi người đều có gia đình và con cháu đề huề. Trong gia đình riêng, họ đều là người chồng, người vợ chung thủy, rất mực yêu thương cái tổ ấm của mình. Và dẫu cho cuộc sống còn nhiều bề bộn với bao toan tính, nhưng tình bạn ba tôi và cô vẫn nguyên vẹn.

Sau giải phóng, ba tôi về sống tại căn nhà trước đây, ở thị trấn An Nhơn bé nhỏ, đìu hiu thuộc tỉnh Bình Định. Từ thủ đô Hà Nội, tháng nào cô cũng thư vào thăm. Cô quan tâm đến từng bữa ăn, viên thuốc cho ba. Mỗi lá thư của cô là sự cổ vũ, động viên để ba tôi vượt qua bệnh tật. Không có lá thư nào quên dặn dò thấu đáo: đừng quên uống thuốc, ngày uống mấy lần, uống vào lúc nào, như dặn một đứa trẻ.
Xin chép một lá cô gửi cho ba tôi. Thư này, chữ dễ đọc hơn.

Hà Nội, ngày 10 tháng 2 năm 1996

Kính gửi anh chị Yến Lan yêu quí!

Anh Yến Lan ơi! Đêm qua anh có ngủ được không. Có ho nhiều không hả anh? Sáng dậy có thấy trong người dễ chịu không?

Mỗi lần chị đọc thư tôi cho anh nghe, anh hãy coi như tôi đang ngồi bên anh. Tôi đến thăm anh đấy mà. Tôi đang xoa những ngón tay của anh trong hai bàn tay tôi. Phải giữ cho ấm bàn tay, bàn chân. À anh có chịu khó hàng giờ uống một thìa xúp không nhỉ, rồi một thìa nước, thìa sữa nữa chứ!

Tôi kể về tôi nhá! Hôm qua có đêm thơ “Mừng Đảng, mừng xuân trên ti vi” anh có xem không? Có mỏi mắt không, anh nhìn có rõ không? Gần đây ti vi hay có mục này. Mấy nhà thơ cao tuổi hay ngồi lại đọc và ngâm những bài thơ hay. Thầy cô giáo cũng hay tổ chức cho các em sinh viên đọc thơ của mình. Tôi rất thích nghe nhưng không nhớ câu nào cả, chỉ thỉnh thoảng nhớ vài câu của anh Xuân Sách. “Nhà càng lộng gió, thơ càng nhạt”. Tôi bị mất xoong thịt cháy đen vì cứ ngồi nghĩ đến câu thơ này

Bữa khác chỉ vì cười lúc đang ăn cơm bị sặc ho phải bỏ bữa cơm vì câu: “Phật Tây Phương gầy tôi thì béo”.  Nào tôi đã gặp anh Xuân Sách đâu nhưng tôi rất quí anh ấy. Giã, thật làm sao mà anh ấy đọc và tìm ra được một cái gì đặc điểm của mỗi nhà thơ, mà hàng trăm nhà thơ thì giỏi quá.
Tôi mới vừa đọc bài “Uống rượu với bạn đồng hương” trong cuốn “Hoa Với Rượu”. Đọc lại thôi chứ trước đây tôi đã đọc ở báo nào rồi. Vui, vui và đầy nhựa sống. Nói về say thì không có câu nào ví được với:

Đất say đất cũng lăn quay

Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười.

Chị Yến Lan ơi! Hôm nay bệnh tình anh thế nào rồi hả chị? Chị đọc trước thư tôi, chỗ nào không nên đọc thì bỏ đi nhé. Tôi không biết thế nào nhưng tôi cứ cho là bệnh nặng rồi đấy. Chị cố dỗ cho anh ấy uống xúp một giờ một thìa chị ạ. Hiện nay có cháu nào cùng ở với chị, các cháu thay phiên nhau xoa hai bàn tay hai bàn chân. Phải giữ ấm cho bớt run. À mắt anh có còn nhìn thấy chữ to không? Có nhìn được bức ảnh, hình không chị? Chị bận lắm thì không phải trả lời thư cho tôi đâu, chị bảo cháu nào viết cho tôi vài câu, ví dụ như: hôm nay anh bớt ho. Anh vui hay buồn. Tôi rất thông cảm với chị”

Thân ái và ký tên.

Tôi nhận ra tình bạn hai người thật tuyệt vời! Tôi mong mình có được người bạn như vậy! Bạn trai của tôi ư? Khi bị khước từ họ trở nên xa lạ, có người còn không muốn đội chung trời với tôi. Còn ba và cô, tuy ai cũng có gia đình riêng, song vẫn lo lắng và quan tâm đến nhau. Tôi trân trọng tình bạn thủy chung trước sau như một của hai người.

Hè năm 2002, ra thăm Hà Nội, tôi và má đem Hồi ký “Yến Lan, nhớ mãi về anh” vừa xuất bản, tặng cô. Cô liền khoe “Mình cũng vừa xem bài giới thiệu trên Báo “Người Lao Động”. Nói rồi cô vào nhà lấy ra một bìa sơ-mi cứng, màu hồng, vân đen; bên trong là những mẫu giấy được cắt từ báo ra. Cô cẩn thận lấy từng mẫu đưa tôi xem. Đó là những bài viết về Yến Lan. Tôi sững sờ trước sức nặng “ngàn cân” của sự thủy chung, trọn vẹn, giàu tính nhân văn mà cô dành cho ba tôi.

Trước khi quay vào Sài Gòn, tôi đến thăm cô lần nữa. Cô nhìn tôi cười, nói nhỏ “Cô xem xong Hồi ký rồi, cháu giúp má viết được hồi ký này là giỏi lắm! Còn điều này, cô là người Hội An chứ không phải người Nam Bộ đâu” Rồi cô nói nhỏ với theo “Ba cháu là một người đặc biệt, rất khác với những người đàn ông khác. Ba cháu ý nhị lắm!”.

Có gì đó sâu thẳm trong trái tim người đàn bà này mà tôi chưa rõ khi nói với tôi: “Kể từ khi biết ba cháu đến nay, hễ đọc báo thấy tên Yến Lan thì cô lập tức lấy kéo cắt và giữ cẩn thận, không sót bài nào”. Câu cô nhận xét về ba tôi “ba cháu ý nhị lắm” khơi gợi trong tôi sự tò mò sẵn có. Cuối cùng tôi cũng tìm ra được điều ý nhị của ba tôi mà chỉ có cô mới thấu đáo; đó là khi đọc thơ của ông, cô nhận ra ngay “chữ nào, câu nào là ông dành cho cô”  Ví dụ bài thơ “Xào xạc lá đa”, viết tại Hà Nội, song hoài niệm về cái thuở hai người mới quen đã quay trở lại:

Xào xạc sân chùa rụng lá đa

Tuổi thơ như thế đến tìm ta          

Tiếng trong, tiếng đục nhòa nhân ảnh

Tô thếp bao nhiêu vẻ nhạt mờ    

Thực ra cô quá lo xa khi đề nghị tôi đừng viết tên cô vào đâu, nhưng khi đọc hồi ký cô có vẻ mãn nguyện và không giận tôi khi có tên cô trong đó. Mỗi lá thư cô gửi cho ba; má tôi đều cảm nhận được tình cảm sâu nặng, nồng thắm, thiết tha giữa hai người. Song thật khó giải thích cho đúng nghĩa, vì nó không mang dáng vẻ của tình yêu giữa nam nữ để người thứ ba hiểu nhầm. Chẳng thế mà có lần, má tôi nhìn tôi rồi hỏi, và cũng như tự hỏi chính mình:

“Tại sao hai người thương nhau như vậy mà không lấy nhau nhỉ?”. Tôi nheo mắt, nhìn má cười ý nhị, chậm rãi thưa:

“Nếu nói về tình bạn của hai người thì hơi quá, nhưng về tình yêu thì chưa thấy gì”.

Câu nói của tôi làm bà tức cười, mắng yêu: “Cha cái con này!”

{jcomments on}

Leave a Reply

Your email address will not be published.