Tà áo lụa giữa những cánh sen
Nguyên tác : Un lembo di seta tra i fori di loto
Của Elena Pucillo Truong
( Bản dịch của Trương Văn Dân)
Không khí ngạt thở bởi giao thông trong các thành phố lớn. Đó là cảm
giác đầu tiên khi ghé thăm một đô thị lớn dù là Á hay Âu, ngạt thở vì
hơi nóng, bụi bặm, khí thải từ các phương tiện giao thông, khó chịu
vì tiếng ồn ào của xe cộ và tiếng còi xe. Tôi nhận ra là sống trong
điều kiện ấy, dần dà người ta phát triển được khả năng thích ứng,
giống như một sự cam phận.
Người ta làm quen và chịu đựng tất cả mọi thứ, dù lúc ban đầu không
thể nào chấp nhận, thế mà về sau lại xem những vấn nạn đó như là điều
hiển nhiên trong thế giới này. Nghĩa là tôi cũng quen dần với những
tiếng ồn ào của xe cộ, với những phố xá đông người. Khi trở về Ý, ở
một thị trấn nhỏ yên tĩnh hơn, thật là vô lý, tôi lại thấy thiếu vắng
đám đông người, thiếu vắng những tiếng động và mùi vị của Sài Gòn. Rồi
khi trở lại Việt nam, những thứ mà tôi cảm thấy “nhớ” kia lại xuất
hiện và hằng ngày vây bủa lấy tôi.
Ở Ý, bạn bè rất nhiều người tò mò hỏi tôi là Việt Nam như thế nào, một
đất nước xa xôi, khác biệt về khí hậu, ngôn ngữ và tập quán. Thường
thì tôi nói về đời sống vô cùng khác biệt trong các thành phố lớn như
Hà nội hay Sài Gòn so với các thôn xóm nằm giữa ruộng đồng bát ngát,
khuất sau những luỹ tre xanh và các hàng dừa cao. Tôi luôn nói thêm là
tôi rất nhớ màu xanh của lúa, các màu sắc của đồng quê, đây đó nổi lên
một ngôi mộ cổ hay hiện lên một mái chùa, những ngôi nhà tranh có đàn
gà cục tác hay các ao hồ có đàn vịt bình yên bơi lội. Nhưng cũng có
lúc tôi nói với các bạn về sự giao thông hỗn loạn, rất giống nhau giữa
các thành phố lớn, như Napoli ở Ý thì chẳng khác Hà Nội là bao!
Ở Ý, hầu như suốt cuộc đời tôi luôn luôn là một cuộc chạy đua với thời
gian. Đời sống hối hả, lúc nào cũng cuống cuồng: đi học, đi dạy, đi
làm, tiếp xúc với mọi người trong cái nạn kẹt xe khốn khổ, nhiều khi
ngồi bất lực một mình trong xe hơi, xung quanh được bao vây bởi những
chiếc xe bất động khác. Chiếc đồng hồ trên tay tôi luôn được chỉnh
nhanh hơn 15 phút để tránh việc đến nơi hẹn trễ. Luôn luôn “xung kích”
, không bao giờ ngừng nghỉ.
Về sống ở Việt nam có làm chậm tốc độ sống phần nào, nhất là thời gian
đầu, nhưng sau này nhịp sống hối hả cũng bắt đầu xâm nhập ở nơi đây
rồi!
Một buổi chiều, sau khi xong giờ dạy ở trường đại học Khoa Học Xã Hội
và Nhân Văn, vừa bước vào nhà thì chồng tôi nhắc:
– Tối nay mình còn phải đi gặp các bạn nữa đó!
Chỉ có một ít thời gian để thay quần áo và chúng tôi đã ngồi lên xe
máy. Sự giao thông thường lệ vào buổi chiều… rồi đây, chúng tôi sắp
đến, rẽ qua một con hẻm nhỏ sau lưng Đài Truyền Hình thành phố và dừng
lại trước một bảng hiệu có ánh đèn.
Tôi chẳng biết điều gì đang xảy ra: có một điều gì đó khác thường! Chỉ
mới vừa lách qua một con hẻm mà tôi đã thấy như mình đã ở rất xa phố
thị.
Ngồi trên căn gác có thành chắn làm bằng gỗ tre, những người bạn mời
chúng tôi đi lên. Chỉ khi ngồi xuống chiếc băng dài làm bằng gỗ màu
nâu sậm tôi mới nhận biết là mình đang ở đâu: một trà quán; trên các
bức tường có treo các bức thư pháp viết trên các nan tre, nội dung về
thiền trà và Phật giáo. Khi nhìn bức tượng Phật thật lớn đang ngồi
kiết già thiền định ở trước mặt lòng tôi bỗng cảm thấy bình yên.
Người bạn mời chúng tôi đến đây là nhà văn Nhật Chiêu, hiện đang giảng
dạy văn học ở trường Đại Học KHXH và Nhân Văn, người rất nổi tiếng về
những tác phẩm văn chương và các công trình nghiên cứu về văn học Nhật
và Anh. Đó là một nhà văn uy tín có tài năng nhưng rất khiêm tốn. Có
lẽ nhờ bản tính hiền hậu nên ông được bạn bè ái mộ và có nhiều sinh
viên quý mến.
Từ nhiều năm Nhật Chiêu là người bạn rất chân tình của chúng tôi và
tôi tin không phải là một sự tình cờ mà hôm nay chúng tôi gặp gỡ ở
đây. Bằng sự minh triết và ôn hoà, dường như ông muốn giới thiệu với
tôi những điều tôi chưa biết.
Chính Nhật Chiêu đã giới thiệu tôi với bà Viên Trân bà chủ thiền trà,
mà mới đầu tôi tưởng là một nữ đạo sĩ. Đó là một thiếu phụ có khuôn
mặt dịu hiền, trong sáng và bình an. Bà mặc một chiếc áo dài bằng lụa
mỏng có hai tà áo bay lất phất và thướt tha. Rất nhiều năm đã sống ở
Việt Nam nhưng tôi không lúc nào không hâm mộ chiếc áo dài truyền
thống của đất nước này. Nhiều năm trước, lúc mới quen chồng tôi, khi
đó là một chàng sinh viên mới sang Ý du học, anh đã kể cho tôi nghe
rất nhiều điều: Nhiều lần lấy xe máy chạy ra cổng trường nữ trung học
lúc tan trường để chờ các nữ sinh: Một biển người thướt tha trong
chiếc áo dài tinh khôi, hai tà áo trắng cùng với mái tóc huyền tung
bay theo gió. Một hình ảnh đến giờ vẫn còn làm tôi xúc động là khi
nhìn thấy các cô gái mặc áo dài trắng, thong thả dắt chiếc xe đạp
trước cổng trường.
Chồng tôi rất thích nhìn phụ nữ mặc áo dài. Anh nói thoạt nhìn trông
nó cũng tương tự như các loại trang phục của các đất nước Á châu khác,
thế nhưng khi trời có gió hay người mặc nó chuyển động, hai tà áo ve
vẩy phất phơ làm bước đi của người đàn bà thanh thoát và uyển
chuyển.
Tôi cũng có chiếc áo dài đầu tiên của mình khi về Việt Nam lần đầu để
tổ chức đám cưới vào năm 1985. Mấy năm sau, đi dự đám cưới của hai
người bạn Ý ở Milano, tôi cũng thấy cô dâu mặc áo dài mà cô đã rất
thích và đặt may trong một chuyến du lịch ở Việt Nam. Đó là kiểu áo,
mà như tôi đã nói, người phụ nữ nào có cơ hội mặc nó sẽ cảm thấy mình
là một bà hoàng. Dù nó chỉ có một màu hay có được thêu những hoa văn
tuyệt đẹp hay không, nó vẫn luôn lịch sự và quyến rũ.
Và chiếc áo dài mà bà Viên Trân đang mặc cũng thế: được may bằng lụa
có pha những sợi tơ óng ánh, bà còn lịch sự quàng một chiếc khăn trên
cổ, nút thắt hờ, làm nổi bật màu xanh da trời của tơ lụa. Giọng nói
của bà nhẹ nhàng, ngọt ngào và thanh thoát như tiếng đàn tranh của một
cô gái mảnh mai đang gẩy cùng với một thầy dạy đàn tranh, nhà thơ Lê
Mộng Thắng. Ông ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đặt trên nền nhà với
nhạc cụ của mình.
Tôi ngồi quan sát các cử chỉ thành thạo và điệu nghệ của bà Viên Trân
lúc pha trà. Mỗi loại trà được chọn lựa tuỳ theo khoảnh khắc thích hợp
chứ không phải tình cờ.
Bà Viên Trân giải thích là bà đang chọn trà tẩm hương sen, rồi thông
cảm với vẻ tò mò của khách, bà đưa cho tôi một búp sen có những cánh
vừa hé mở, bên trong có một nhúm trà và đỉnh hoa được cột lại bằng một
sợi vải. Bằng cách đó, sau một thời gian trà sẽ được tẩm hương sen và
toả ra trong bình trà lúc được pha nước nóng. Trong lúc quan sát các
cử chỉ thành thạo của bà từ lúc châm nước sôi vào bình trà, bỏ trà
vào, châm thêm nước sôi rồi sau một lúc, đổ đi. Sau hai lần như vậy bà
mới châm nước sôi vào bình trà, đậy nắp và đặt giữa những chiếc tách
nhỏ đã chuẩn bị từ trước.
Căn phòng lúc này thoang thoảng hương sen. Không gian yên tĩnh và
thanh thoát còn thú vị hơn từ những lời trò chuyện nhẹ nhàng, từ
tiếng cười đầy tính bạn bè được đệm bằng tiếng nhạc êm dịu của hai
chiếc đàn tranh. Cả thầy và trò cùng dạo nhạc và có một lúc, nhà thơ
Lê Mộng Thắng còn cao hứng buông đàn để ngâm Kiều và mấy bài cổ thi,
giọng ngâm ấm áp của ông được cô học trò điểm nhẹ bằng vài tiếng đàn
tranh.
Trước khi uống trà, bà Viên Trân rót cho mỗi người một chén rượu nhỏ
rất thơm. Bà nói đó là thứ rượu sen do mà bà tự làm, theo một công
thức từ đời Trần, cách nay mấy thế kỷ. Tôi không quen uống rượu, nhưng
vì tò mò và không muốn mất một chút gì trong giây phút đặc biệt nầy
nên cầm lấy chén rượu nhỏ bà đưa. Hơi nóng của rượu lan khắp toàn thân
lúc tôi nhấp những giọt cuối trên môi.
Chỉ sau khi mọi người uống cạn chén rượu sen bà Viên Trân mới bắt đầu
chiết trà ra các tách nhỏ đang đặt thành vòng tròn trên mặt bàn. Tia
nước từ vòi của ấm trà như đang vẽ một đường cong liên tục trong không
gian, lên xuống nhịp nhàng từ tách đầu đến tách cuối. Bằng một động
tác thật thuần thục, cổ tay thon mềm của bà chuyển động nhẹ đến nỗi
như không thể nào nhận biết, bà chiết đầy trên tất cả các tách trà.
Tôi có cảm giác là thời gian đã ngưng lại trong khoảnh khắc đó: Chẳng
quan trọng là mình đang ở đâu, đang làm gì, ở đây không có chỗ cho quá
khứ với những muộn phiền mà cũng chẳng còn chỗ cho tương lai với bao
ẩn số.
Không. Chỉ còn lại khoảnh khắc vô tận này, khi tôi ấp tách trà nóng
ngào ngạt hương sen giữa hai lòng bàn tay. Tôi cảm nhận được tất cả
những cảm giác của mình. Một niềm xúc động sâu xa, có mang theo hậu vị
thơm ngon từ chén rượu sen vừa nhấp. Hơi nóng của trà lan khắp toàn
thân, và đó là một điều gì rất lạ, tuy rất “vật lý”, bên ngoài mà hình
như đã mang lại cho tôi một sự bình an ở bên trong. Đó chính là niềm
vui khi nhận một món quà không mong đợi, một thứ hơi ấm của tình
người, có những người bạn quây quần bên nhau.
Biết bao điều tôi học được trong tối ấy! Tôi nhớ là sau đó bà Viên
Trân đã mang ra mấy chiếc bánh đậu xanh mà chúng tôi nhâm nhi lúc uống
trà.
Tôi còn gặp những người bạn quý và bà Viên Trân vào những lần khác
trong quán trà, chúng tôi đã trao đổi rất nhiều chuyện quanh ấm trà
làm khép lại những cánh hoa sen và tách trà ngào ngạt hương thơm, thế
nhưng lần nào tôi cũng đều sống lại và cảm nhận cái không khí thân
tình và thanh thoát đó.
Sự hài hoà của âm nhạc, của lời nói thân tình, sức nóng và mùi vị đặc
biệt của rượu sen được đưa lên khi tiếp xúc với trà nóng, chiếc bánh
đậu xanh, tiếng xào xạc và màu sắc quyến rũ của những tà áo dài, sự
thanh thản của giây phút sống bên cạnh nhà văn Nhật Chiêu, bà Viên
Trân cùng các người bạn khác như nhà thơ Lê Mộng Thắng, nhà báo Ngân
Hoa… chính là lý do làm tôi rất yêu mến đất nước này. Dù đã nhiều
năm sống ở đây nhưng với tôi, lúc nào tôi cũng cảm thấy là còn nhiều
điều cần phải khám phá. Và kinh ngạc.
Elena Pucillo Truong
Saigon 7-2012{jcomments on}