{jcomments on}
TÌNH SỬ HUYỀN TRÂN
– Chương 9 –
Nước non ngàn dặm – Giọt lệ phân kỳ
Đưa dâu bịn rịn. Huyền Trân ngàn dặm theo chồng
Nhỏ lệ phân kỳ, toàn dân Đại Việt ngùi thương.
*
1. Tin buồn lan rộng khắp nơi
2. Triều đình tất bật tiễn người ra đi
3. Hôm nay Công Chúa vu qui1
4. Hoàng thành lộng lẫy tinh kỳ tung bay
5. Sen, hồng, sực nức hương ngây
6. Dưới cơn lửa hạ kết đầy phố hoa
7. Tưng bừng nhã nhạc hoan ca
8. Lộng vàng ngựa trước voi ngà kiệu sau
9. Sứ Chiêm náo nức đón dâu
10. Hậu cung bịn rịn nói câu giã từ
11. Dấu kín sau những nụ cười
12. Là bao dòng lệ khóc người con yêu
13. Thương thân Công Chúa diễm kiều
14. Ngây thơ đã chịu lắm điều đắng cay
15. Dùng dằn nặng bước chân đi
16. Cố ngăn tiếng nấc từ ly nghẹn ngào
17. Vầng hồng quá đỉnh non cao
18. Tinh kỳ giục giã đưa dâu lên đường
19. Người xem chật ních phố phường
20. Tay cầm sen trắng ngát hương vẫy chào
21. Những dòng nước mắt tuông trào
22. Tiễn người kỳ nữ đi vào sử xanh
23. Một hồn thơ dại tinh anh
24. Vì non sông gạt hết tình riêng tư
25. Cô đơn dấn bước xứ người
26. Để cho trăm họ tốt tươi an lành
27. Nhìn những dòng lệ lăn nhanh
28. Lòng nàng ấm áp mối tình quê hương
29. Thân ta dù lắm đoạn trường
30. Cũng không đáp nổi tình thương mọi người
31. Môi xinh gượng nở nụ cười
32. Vẫy tay từ biệt thay lời tạ ơn
33. Nghe sâu kín nỗi tủi hờn
34. Muôn ngàn người tiễn vẫn còn thiếu ai
35. Âm thầm buông tiếng thở dài
36. Kẻ vô tình ấy miệt mài phương nao
37. Không tiếng nói không câu chào
38. Không một ánh mắt tiễn nhau cuối cùng
*
39. Gập ghềnh ngựa xoải bụi hồng
40. Quan san hun hút ngàn thông xanh rì
41. Ngoảnh trông khuất nẻo kinh kỳ
42. Chiều vàng soi bóng Ba Vì2 xa xa
43. Bình minh lấp lánh sương sa
44. Phủ dòng sông Đáy3 hiền hòa trôi xuôi
45. Có ai cất tiếng ngậm ngùi
46. Giọng già nua nghẹn những lời rưng rưng
47. “Tiếc thay cây quế giữa rừng
48. Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”
49. Hát rồi dõi mắt trông theo
50. Lệ trên đôi má nhăn nheo chảy dài
51. Kiệu hồng trong cõi trần ai
52. Con đường thiên lý miệt mài vó câu
53. Gió đồng lay động ngàn lau
54. Tưởng còn thấy dấu chân trâu Tiên Hoàng4
55. Đường cái quan cuốn bụi vàng
56. Ngựa người phu trạm dặm ngàn bon bon
57. Vượt đèo Tam Điệp5 chon von
58. Lắng nghe vượn hú đầu non chạnh lòng
59. Đây bức tường thành núi sông
60. Mồ chôn xác giặc Nguyên Mông bao lần
61. Ầm ầm sông Mã6 thét gầm
62. Như còn oán trách cảnh lầm than xưa
63. Trầm trầm trong tiếng gió đưa
64. Hiệu cồng Bà Triệu7 voi lùa giặc Ngô
65. Trời mưa ướt cánh đồng khô
66. Về qua Thanh Hóa8 ngắm cô thôn buồn
67. Đất nghèo nhưng lắm tình thương
68. Gởi theo câu hát thê lương u hoài
69. “Ru hơi ru hỡi ru hời
70. Làm trai đứng giữa đất trời mà chi
71. Nỡ để Công Chúa ra đi
72. Anh dang tay nhận Ô – Ly đem về”
73. Lời ru thắm đượm tình quê
74. Khiến đoàn lữ thứ buồn tê tái lòng
75. Tưởng người nặng gánh non sông
76. Tiếc người uổng kiếp má hồng mà đau
77. Người đi dạt bước về đâu
78. Để mây Hồng Lĩnh9 bạc đầu nhớ thương
79. Lam Giang10suối tóc xỏa buông
80. Nước trong còn chở nỗi buồn mênh mang
81. Hoành Sơn11 chênh chếch đèo Ngang
82. Cố dang tay giữ gót nàng bước qua
83. Chiều tang khói tỏa quan hà
84. Bên kia màn lệ quê nhà nơi đâu
85. Sông Gianh12 biên biếc một màu
86. Đò ngang quạnh quẽ gợi sầu tha hương
87. Tiếng ai đối đáp trên nương
88. Câu hò Lệ Thủy13 còn vương vấn lòng
89. “Trời mưa ướt ngọn đòng đòng
90. Công Chúa lấy chồng sao phải sang Chiêm”
91. “Trời mưa ướt đọt chuối xiêm
92. Nàng sang Chiêm để ấm êm muôn nhà”
93. Giọng hò nghe thật hiền hòa
94. Mặn mà ruột thịt thiết tha nghĩa tình
95. Dương hồng lấp lánh bình minh
96. Sóng xô Nhật Lệ14 mông mênh nước về
97. Dừng chân cuối nẻo đường quê
98. Ngoảnh trông cố quốc mà tê tái hồn
99. Gởi trên đất Mẹ nụ hôn
100. Đứa con lạc lỏng biết còn về đây
101. Để trao Mẹ nắm xương gầy
102. Cõi lòng đòi đoạn nỗi đầy nỗi vơi
103. Dòng châu lã chã tuông rơi
104. Làm sao nói hết những lời sắc son
105. Đây Ô – Lý đất hồi môn
106. Lưa thưa heo hút xóm thôn nghèo nàn
107. Nàng nghe cảm khái vô vàn
108. Đất vuông ngàn dặm, hồng nhan một đời
109. Vì ta vật đổi sao dời
110. Hờn căm còn đọng mắt người thổ dân15
111. Cheo leo mây phủ Hải Vân
112. Kiệu hồng ngần ngại bước chân dặm đàng
113. Cữa Ô Long16 – Phá Tam Giang17
114. Đoàn thuyền hoa vượt sóng ngàn vào Nam
1 Mùa Hạ, tháng 6 năm 1306- Đại Việt đưa Huyền Trân Công Chúa xuất giá về Chiêm với Chế Mân.( ĐVSKTT)
2 Ba Vì được coi là ngọn núi tổ của nước Đại Việt. Đây là nơi ngự trị muôn đời của thần Tản Viên (tức Sơn Tinh). Ngọn núi này cách nội thành Thăng Long hơn 60 km về phía Tây. Ngọn núi cao nhất là Ngọc Tản. Trên núi có đền Thượng thờ thần núi Tản Viên.(BKTT mở)
3 Sông Đáy: Ở miền Bắc Việt Nam. Sông Đáy nhận nước của sông Hồng ở địạ phận Hà Nội . Quãng sông này còn có tên là sông Hát hay Hát giang. Chỗ sông Hồng tiếp nước là Hát môn, nơi xưa kia Hai bà Trưng đã trầm mình tuẩn tiết. Hiện có đền thờ Hai Bà ở đây.(BKTT mở)
4 Đinh Tiên Hoàng: Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh từ một đứa trẻ mục đồng đã dẹp được loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn, lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại nhà Đinh và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Vua Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lấy Hoa Lư (Ninh Bình) làm kinh đô.(BKTT mở)
5 Đèo Tam Điệp là tên gọi chính thức trong sử sách và địa lý cổ Việt Nam, chỉ con đường thiên lý cổ, đường cái quan, hay đường dịch trạm từ Thăng Long vào nam, đi qua 3 đoạn đèo giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Nó là một tổ hợp đèo trên núi Tam Điệp, một dãy núi nằm giữa Ninh Bình và Thanh Hóa.
6 Sông Mã dài 512 km bắt nguồn từ phía Nam tỉnh Điện Biên chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam qua huyện Sông Mã của tỉnh Sơn La, qua lãnh thổ Lào, rồi tới tỉnh Thanh Hóa. Sông có tên là sông Mã vì dòng nước chảy rất xiết gầm vang như tiếng ngựa phi.
7 Bà Triệu : xem chú thích số 3
8 Thanh Hoá:(còn gọi là xứ Thanh) là một trong những tỉnh đông dân nhất Việt Nam (ngày nay) nằm ở vùng Bắc Trung Bộ, cách thủ đô Hà Nội 150 km về phía nam. Thời thuộc Hán gọi là Quận Cửu Chân, thời tiền Lê gọi là châu Ái. Đời Trần đổi là Thanh Hoá phủ lộ . Thanh Hóa là xứ nghèo nên cô gái vùng châu thổ sông Hồng trù phú đã nói:
Ăn chanh ngồi gốc cây chanh
Lấy anh thì lấy về Thanh không về
9 Núi Hồng Lĩnh: Là dãy núi núi nổi tiếng nhất Hà Tĩnh. Cùng với sông Lam, núi Hồng Lĩnh được xem là biểu tượng hồn thiêng sông núi của xứ Nghệ.
10 Lam Giang: Sông bắt nguồn từ vùng Nậm Căn, Lào. Phần chính của dòng sông chảy qua Nghệ An, phần cuối của sông Lam hợp lưu với sông La từ Hà Tĩnh, tạo thành biên giới của Nghệ an và Hà tĩnh đổ ra biển tại cửa Hội. Sông đặc biệt có dòng nước rất trong và còn có các tên như ,Sông Lam, Thanh Long Giang, Lam Thủy.(BKTT mở)
11 Hoành Sơn (núi ngang) là một dãy núi ở phía nam tỉnh Hà Tĩnh, phía bắc tỉnh Quảng Bình. Hoành Sơn và sông Gianh là biểu trưng lịch sử, văn hoá, địa lý của tỉnh Quảng Bình. Đèo Ngang là thông lộ nối liền Hà Tĩnh và Quảng Bình .(BKTT mở)
12 Sông Gianh được gọi là Linh Giang thuộc điạ phận Quảng Bình. Nếu Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939) và trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069) thì sông Gianh là ranh giới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786) với cảnh huynh đệ tương tàn gần nửa thế kỷ (1627-1672). (BKTT mở)
13 Điệu hò Lệ Thủy là đặc trưng văn hóa của xứ Quảnh Bình.
14 Sông Nhật Lệ cùng sông Gianh, Hoành Sơn, Đèo Ngang là những địa danh nổi tiếng của tỉnh Quảng Bình trong dòng chảy lịch sử ,văn hoá của dân tộc Việt. Sông Nhật Lệ còn có tên là Đại Uyên được đổi thành sông Nhật Lệ khoảng năm 1069-1075 dưới thời Vua Lý Thánh Tông.(BKTT mở).
15 Tháng giêng năm 1307, Vua Anh Tông cho đổi tên hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hóa. Sai Hành Khiển Đoàn Nhữ Hài vào vỗ yên dân hai châu đó vì người Chiêm ở các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo . ( ĐVSKTT)
16 Cữa Ô Long: Cữa biển này xưa thuộc về đất nước Chiêm Thành, đời Lý gọi là cữa Ô Long. Đến đời Trần, vua Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân, đưa Công Chúa bằng đường bộ tới đây rồi xuống thuyền ở cữa biển này về Chiêm nên đổi tên thành Tư Dung để tưởng nhớ đến người liệt nữ. Đến đời Mạc, tên cữa Tư Dung lại phải đổi thành cửa Tư Khách vì chữ Dung có âm trùng với tên Vua đầu tiên của nhà Mạc : Mạc Đăng Dung. Đến đời nhà Nguyễn lại đổi thành cữa Tư Hiền vì cữa đã bị lấp cạn và nhỏ đi nên tàu chiến của địch không thể dùng nó mà tấn công Kinh Thành Huế được.(BKTT mở)
17 Phá Tam Giang là một phá nằm trong hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai. Diện tích phá Tam Giang khoảng 52km², trải dài khoảng 24 km theo hướng tây tây bắc-đông đông nam từ cửa sông Ô Lâu đến cửa sông Hương, thuộc địa phận ba huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà tỉnh Thừa Thiên-Huế. Phá này chảy ra hai cữa Thuận An và cữa Tư Dung.(BKTT mở)
noi long cua cong chua Huyen Tran duoc the hien tai tinh lam
Nhìn “Vọng cố Hương” thấy tậu công chúa quá !
Chắc là vì qúa xúc động nên mấy câu “ca dao” BOLD lộn ráo trọi phải không? Tậu nghiệp thiệt ..hic ..hic …
Một hồn thơ dại tinh anh
Vì non sông gạt hết tình riêng tư
Cô đơn dấn bước xứ người
Để cho trăm họ tốt tươi an lành
Nhìn những dòng lệ lăn nhanh
Lòng nàng ấm áp mối tình quê hương
Thân ta dù lắm đoạn trường
Cũng không đáp nổi tình thương mọi người.
Vì non sông ,vì trăm họ Huyền Trân đành gạt lệ ra đi thương cho nàng quá.
Thơ hay lắm VT ơi.
Nghe sâu kín nỗi tủi hờn
Muôn ngàn người tiễn vẫn còn thiếu ai
Âm thầm buông tiếng thở dài
Kẻ vô tình ấy miệt mài phương nao
Không tiếng nói không câu chào
Không một ánh mắt tiễn nhau cuối cùng
Buồn quá!
*
Cảm ơn láxanh, Mỹ Thắng, Quốc Tuyên và Ngọc Tín đã bày tỏ cảm xúc của mình. Người nay còn vậy thử hỏi người thời đó họ xúc động và thương cảm biết bao khi tiễn bước chân Người. Đoạn này VT có gắng nói lên tình cảm của muôn dân các xứ trên bước đường vu qui mà CCHT đã đi qua, đáng tiếc là ý muốn thì cao mà ngòi bút lại không đủ sâu. VT đã viết nhạc phẩm “Lệ Nhỏ Cữa Tư Dung (tức TSHT)”, cháu Khanh đã hòa âm rồi và đang tìm ca sĩ hợp giọng để hát nữa là hoàn tất. Hy vọng đến đoạn Huyền Trân “hồi tôn” xuống lại cữa Tư Dung để về Thăng Long chúng ta sẽ được thưởng thức bài hát này.
Chúc các bạn vui .
Một hồn thơ dại tinh anh
Vì non sông gạt hết tình riêng tư
Cô đơn dẫu bước xứ người
Để cho trăm họ tốt tươi an lành!
Hay quá ! một tâm hồn trong sáng vì nước non vì trăm họ phải hy sinh tình riêng…! thật xúc động lòng người!những đoạn thơ kỳ nảy Vũ Thanh viết rất hay! phải bái phục VT mới được!chúc dzui nhen!
Cảm ơn Kim Loan, VT lúc nào cũng nhận được sự tán thưởng của Kim Loan cả. Chúc cuối tuần vui vẻ.
Gởi trên đất Mẹ nụ hôn
Đứa con lạc lỏng biết còn về đây
Để trao Mẹ nắm xương gầy
Cõi lòng đòi đoạn nỗi đầy nỗi vơi
Sao giống ngày Lệ Ni xa quê hương quá .