Tình Sử Huyền Trân – Chương 5

Nặng tình non nước – Dấu kín lòng riêng

Huyền Trân Công Chúa hồi tưởng chuyện ấu thơ.

Văn Quân lên đường tìm Cha . Huyền Trân dấu kín nỗi lòng

*

1. Nàng ngồi bên khóm Tường Vi

2. Nhìn hoa nhớ buổi từ ly mà buồn

3. Không phải nhớ chẳng phải thương

4. Chỉ là nhè nhẹ chút vương vấn hờn

5. Vườn thượng uyển bướm chập chờn

6. Muôn hoa khoe sắc cô đơn riêng mình

7. “Người bạn nhỏ” thật vô tình

8. Hai năm chẳng ghé về Kinh một lần

9. Mãng vui cuộc sống phong trần

10. Hẳn quên “đại tỷ Huyền Trân” này rồi

 

11. Hay là ở chốn xa xôi

12. Hắn đang nói nói cười cười với ai

13. Hay trong sương gió đường dài …

14. Nàng buông nhẹ tiếng thở dài vu vơ

15. Thời gian trôi thật hững hờ

16. Những ngày vui cũ bây giờ còn đâu

17. Kể từ Mẫu Hậu tiên du

18. Phụ Hoàng thoái vị[1] tìm tu lánh đời

19. Bỏ ba huynh muội cút côi

20. Tuyên Từ di mẫu[2] vốn người thiện tâm

21. Những mong ba trẻ thành nhân

22. Phép khuôn Dì khó đăm đăm từng lời

23. Chỉnh giọng nói sửa tiếng cười

24. Văn ôn võ luyện hơn người mới thôi

25. Vương huynh tuy đã lên ngôi

26. Vẫn còn sớm tối tới lui thưa trình[3]

27. Ngoại công[4] thấy trẻ thương tình

28. Thường sai Cữu Phụ[5] lên Kinh đón về

29. Đường sang Vạn Kiếp lê thê

30. Dài hun hút những làng quê điêu tàn

31. Bùi ngùi trước cảnh lầm than

32. Huyền Trân hỏi Cậu lan man đủ điều

33. Nhượng Vương dõi mắt đăm chiêu:

34. “Non sông này vẫn còn nhiều nỗi lo

35. Trải ba cuộc chiến cam go

36. Trăm họ bữa đói bữa no từng ngày

37. Ơn Vua dù đã tưới dày

38. Cũng không xóa hết đắng cay dân lành”

39. Những xóm nghèo, những mái tranh

40. Từng tấm áo vá mong manh thân gầy

41. Nhòe sau màn lệ dâng đầy

42. In sâu tận đáy thơ ngây hồn nàng

43. Nghĩ mình điện ngọc cung vàng

44. Nghĩ người cơ cực lầm than mà buồn

45. Quốc Chẩn[6] buông tiếng cười giòn:

46. “Huyền Trân muội thật tâm hồn thiện lương

47. Thấy người đói rách xót thương

48. Nên theo Vương Phụ chọn đường xuất gia”

49. “Thân này là của Mẹ Cha

50. Nhưng trái tim muội sẽ là muôn dân”

51. Quốc Tảng trong dạ bâng khuâng

52. Lặng nhìn cô cháu muôn phần đáng yêu

53. Tuổi hoa chưa trải bao nhiêu

54. Đã lòng xót đám dân nghèo lầm than

55. Thiện tâm vướng chữ đa đoan

56. Trung trinh ắt nợ giang san còn nhiều

*

Đền Kiếp Bạc

 

57. Xe về Kiếp Bạc[7] một chiều

58. Vi vu vẳng tiếng sáo diều thu không

59. Đồi cao núi thấp chập chùng

60. Tà huy lấp lánh trên sông Lục Đầu[8]

61. Rừng xanh nội cỏ một màu

62. Tưởng còn đồng vọng vó câu một thời

63. Phủ đường vừa mới tới nơi

64. Đã nghe có tiếng trẻ cười trước sân

65. Quốc Tảng gọi lớn: “Văn Quân

66. Báo Nội tổ biết chị Trân về rồi”

67. Hai năm thiếu Mẹ lẻ loi

68. Về thăm quê Mẹ lệ rơi tủi mừng

69. Trong vòng tay của Ngoại công

70. Tưởng như hơi ấm trong lòng Mẹ yêu

71. Hưng Đạo Vương rất nuông chìu

72. Trân qúi cháu gái mỹ miều hiền ngoan

73. Tuổi thơ vui vẻ hợp đoàn

74. Sau dăm câu chuyện dễ dàng kết thân

75. Quốc Tảng rằng: “Đỗ Văn Quân

76. Là con của một cố nhân[9] năm nào

77. Những ngày chiến cuộc lên cao

78. Đã giúp Ngoại tổ lẻn vào Trung nguyên

79. Dò thám nội bộ quân Nguyên

80. Thu thập tin tức mật truyền về đây

81. Người đi đã chín năm đầy

82. Vẫn còn biền biệt chưa quay về nhà

83. Văn Quân lúc ấy lên ba

84. Cữu Phụ thay bạn nhận là con nuôi

85. Tính theo gia tộc thứ ngôi

86. Văn Quân phải gọi hai người tỷ – huynh

87. Đã cùng trong một gia đình

88. Hãy nên thương mến như tình tây chân”

89. “Quân chào Quốc Chẩn Vương thân

90. Đệ chào “đại tỷ Huyền Trân” mới về”

91. Nửa năm sống chốn đồng quê

92. Cùng “người bạn nhỏ” thỏa thuê vui đùa

93. Đồng xanh thơm ngát bóng dừa

94. Dòng sông quê Ngoại mấy mùa trăng lên

95. Những ngày thơ ấu khó quên

96. Êm như thảm lụa phủ lên tâm hồn

97. Chia tay biết mấy là buồn

98. Cứ lưu luyến mãi đoạn đường tiễn nhau

99. Vui sao vừa đúng Xuân sau

100. Cậu cùng “bạn nhỏ” về chầu lệnh Vua

101. Lại gặp nhau để cười đùa

102. Lại chia tay để tiếc chưa thỏa lòng

103. Năm tàn mấy độ Thu Đông

104. Tuổi thơ trôi mãi theo dòng thời gian

105. Bốn năm sau, tiễn Phụ Hoàng[10]

106. “Người bạn nhỏ” nay thành chàng Văn Quân

107. Gặp nhau chưa ráo lệ mừng

108. Chợt nghe nghèn nghẹn, rưng rưng lệ buồn

109. Nước xuôi muốn trở về nguồn

110. Chàng xin Nghĩa Phụ lên đường tìm Cha

111. Chia tay nâng chén quan hà

112. Thoắt như giấc mộng đã là hai năm

113. Nàng đang mộng mị xa xăm

114. Bỗng nghe Quốc Chẩn reo ầm mừng vui

115. “Trân muội hãy vào mà coi

116. Đố muội nhận biết được người nào đây”

117. Nàng như choàng giấc ngủ say

118. Theo chân Quốc Chẩn vào ngay sảnh đường

119. Một chàng trai trẻ phương cương

120. Kiêu hùng mấy bậc, phong sương mấy tầng

121. “Đệ chào “đại tỷ Huyền Trân”

122. Xin chào đệ nhất mỹ nhân trên đời”

123. Huyền Trân cố nén niềm vui

124. Nàng làm mặt giận: “Con người vô tâm!!

125. Ra đi biền biệt hai năm

126. Bóng chim tăm cá, hồi âm chẳng màng

127. Nhỡ khi bất trắc giữa đàng…”

128. Anh Tông cười lớn: “Xin can hai người

129. Quân đệ vừa về đến nơi

130. Hãy nghe kể lại cuộc đời gió sương”

131. Quân rằng: “Từ buổi lên đường

132. Chân đệ dẫm khắp bốn phương sông hồ

133. Sang Trung thổ vào kinh đô

134. Bóng hình gia phụ vẫn vô vọng tìm

135. Hay tin sứ bộ nước Chiêm

136. Đang vào Đại Việt đệ liền về ngay …”

137. Vua rằng: “Quả thật dịp may

138. Thượng Hoàng cũng muốn lần này sang Chiêm

139. Ngài vừa du hóa tạo duyên

140. Vừa liên minh chống giặc Nguyên hung tàn

141. Đường dài cách trở quan san

142. Có đệ hộ giá huynh an tâm rồi”

143. “Đó là bổn phận mà thôi

144. Đệ nguyền gắng sức phò người về đây”

145.Nàng nghe lòng mắt cay cay

146. Dứt câu hội ngộ, chia tay tiếp lời

147. Người chưa dừng cánh chim trời

148. Ta còn mỏi mắt chờ nơi cô phòng

149. Trăng vàng còn chiếu qua song

150. Thu còn trút lá, còn mong người về.

 

* **

 


[1] Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Anh Tông tháng 3 năm 1293, tháng 9 cùng năm đó Hoàng Hậu Khâm Từ mẹ ruột của Huyền Trân qua đời. Năm ấy nàng vừa tròn 6 tuổi .

[2] Hoàng hậu Tuyên Từ cũng chính là em gái của Khâm Từ, dì ruột của Huyền Trân.

[3] Anh Tông tuy ở ngôi Vua nhưng vẫn rất mực sợ Thái Hậu Tuyên Từ . Có lần Thượng Hoàng Nhân Tông nói với Anh Tông: “Cha tự thẹn xưng là một hiếu Hoàng, nên dùng danh hiệu ấy để gọi Qua gia (tiếng gọi Vua) là phải” . ( Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

[4] Tức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

[5] Cữu Phụ: Tiếng gọi anh hay em ruột của Mẹ, tức Cậu ruột Huyền Trân, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, em Khâm Từ Thái Hậu .

[6] Quốc Chẩn là người anh thứ 2 của Huyền Trân, sinh năm Tân Tỵ 1281 vừa mới được vua anh là Trần Anh Tông phong chức Huệ Võ Đại Vương năm ông 13 tuổi. (ĐVSKTT)

[7] Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Kiếp Bạc là tên ghép của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Đây là quê hương và cũng là đất phong Vương của Hưng Đạo Vương Trần Hưng Đạo. Đền Kiếp Bạc được xây dựng từ thế kỷ thứ 14 để thờ Đức Thánh Trần – Hưng Đạo Vương, gia quyến cùng các gia tướng. (BKTT mở).

Trước cổng đền nay có 2 câu đối của Thám Hoa Vũ Phạm Hàm (1864-1906) như sau:

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí

Lục Đầu vô thủy bất thu thanh

Dịch nghĩa:- Núi Vạn Kiếp đâu đâu cũng có tiếng gươm đao

Sông Lục Đầu không ngọn sóng nào không vang tiếng trống trận.

[8] Chỗ hợp lưu của các con sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy và nhánh chính sông Thái Bình gọi là Lục Đầu Giang, do đây là nơi sáu con sông hợp nhau . Sông Lục Đầu chảy ngang qua vùng Kiếp Bạc, Vạn Kiếp. Là nơi đã diễn ra hội nghị Bình Than 1283. Đây là trọng điểm chiến lược của hệ thống đường thủy nên ngày xưa Hưng Đạo Vương đã đóng trọng binh ở đây và đã thắng quân Mông Cổ một trận vang dội ở Vạn Kiếp.(BKTT mở):

[9] Tức Đỗ Vỹ, người bạn chí thân của Trần Quốc Tảng. Đỗ Vỹ là người văn võ toàn tài nhưng cương quyết không làm quan cho nhà Trần chỉ thích ngao du bốn bể. Quốc Tảng ngờ Ông là hậu nhân còn sót lại của nhà Lý . Trong khi quân Mông Cổ chuẩn bị cuốc xâm lăng Đại Việt lần thứ ba, Hưng Đạo Vương có nhờ Đỗ Vỹ sang Trung thổ để do thám tình hình nội bộ quân Mông . Ông ra đi và gởi về nhiều tin tình báo quan trọng giúp Hưng Đạo Vương trong việc chuẩn bị kế hoạch phá giặc . Chiến cuộc tàn rồi mà Ông vẫn đi biệt chưa về, để lại đứa trẻ mồ côi Mẹ mới lên ba cho Quốc Tảng dưỡng nuôi. (xin đọc thêm loạt truyện Người Thăng Long của tác giả Hà Ân)

[10] Năm 1299 Thượng Hoàng Nhân Tông rời cung Thiên Trường để vào núi Yên Tử, chính thức việc tu khổ hạnh Đầu Đà. Việc này gây chấn động cả quốc dân Đại Việt, triều thần ai cũng dự lễ tiễn đưa. (Trần Nhân Tông cuộc đời và sự nghiệp , tác giả Lê Cung){jcomments on}

Leave a Reply

Your email address will not be published.