Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ

Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ

Lam Nguyên dịch thơ tặng Hương Xưa

 

Bài thơ Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ của thi sĩ Trương Nhược Hư , ông là người đất Dung Châu, huyện Giang Đô, tỉnh Giang Đô bên Trung Quốc. Thi sĩ họ Trương này sinh và mất năm nào chưa rõ, chỉ biết ông sinh trong thời Đường Duệ Tông năm 711. Ông cùng Hạ Tri Chương, Trương Húc và Bao Dung xưng là Ngô Trung Tứ Sĩ.

 

Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ

Trương Nhược Hư

Xuân giang triều thủy liên hải bình

Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh

Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý

?

Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh?

Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện

Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển

Không lý lưu sương bất giác phi

Giang thượng bạch sa khan bất kiến

Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần

Hạo hạo không trung cô nguyệt luân

?

Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?

?

Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?

Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ!

Giang nguyệt niên niên vọng tương tự

?

Bất tri giang nguyệt chiếu hà nhân?

江照

Đãn kiến trường giang chiếu lưu thủy

Bạch vân nhất phiến khứ du du

Thanh phong phố thượng bất thăng sầu

Thùy gia kim dạ biên chu tử

?

Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?

Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi

人粧

Ưng chiếu ly nhân trang kính đài

Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ

Đảo y châm thượng phất hoàn lai

Thử thời tương vọng bất tương văn

Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân

Hồng nhạn trường phi quang bất độ

Ngư long tiềm dược thủy thành văn

Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa

!

Khả liên xuân bán bất hoàn gia

Giang thủy lưu xuân khứ dục tận

西

Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà

Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ

Kiệt Thạch Tiêu Tương vô hạn lộ

?

Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy?

滿

Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.

Trương Nhược Hu

Lam Nguyên dịch thơ :

Cảnh Trăng Hoa Trên Sông Vào Đêm Xuân

Thủy triều dậy sông xuân liền biển

Nước mênh mông một phiến trăng ngà

Dập dồn sóng vỗ dặm xa

Nơi nào mà chẳng trăng ngà sông xuân?

Nước uyển chuyển theo rừng thơm ngát

Nguyệt hoa kia bàng bạc tươi xinh

Trời cao sương giãi vô tình

Trên vùng cát trắng nhạt tình xa trông

Không mảy bụi trời sông một sắc

Lửng từng không vằng vặc trăng soi

Ai kìa thấy trước trăng trời

Và trăng kia lại soi người năm mô?

Kiếp hóa sinh những vô cùng tận

Năm lại năm trăng vẫn như xưa

Trăng sông biết chiếu ai giờ!

Trường giang chỉ thấy lờ đờ nước trôi

Mảnh mây bạc bên trời bay mãi

Rừng phong xanh sông trải u sầu

Thuyền ai lơ lửng đêm thâu

Nơi mô trăng giãi trên lầu tương tư?

Trăng lầu ấy nguyệt như thương cảm

Vào trang đài dục thảm, ly nhân

Trong rèm trăng vẫn tần ngần

Chày kia phủi áo bao lần không đi

Mong gặp gỡ tin thì vắng bặt

Nguyện theo trăng giáp mặt người thân

Nhạn bay trăng vẫn ở gần

Ngư long khuất bóng nước vờn nao nao

Mộng đêm trước nghe bao hoa rụng

Thương nửa xuân lận đận phương trời

Dòng sông cuồn cuộn xuân trôi

Sông sâu hoa rụng nguyệt dời phương Tây

Trăng xế thấp chìm ngay bể cả

Sông núi xa vạn ngả mông lung

Người nào cưỡi nguyệt về chung

Trăng tàn cây nước một vùng buồn sao!

Lam Nguyên

Thi sĩ Trương Nhược Hư như những nhà thơ đời Đường khác thường yêu trăng sông và có thể nói rằng sông nước khói trăng gắn liền cuộc đời họ :

Xuân giang triều thủy liên hải bình

Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh

Tôi đã dịch:

Thủy triều dậy sông xuân liền biển

Nước mênh mông một phiến trăng ngà

Nếy độc giả nhìn kỹ bốn chữ Xuân, Giang, Hoa, Nguyệt trên đầu đề bài thơ thì sẽ thấy mỗi chữ như đang hoạt động rõ ràng: trăng gặp nước mà nước sông của mùa Xuân thì không gì đẹp bằng, nhờ có Xuân nên Hoa mới nở. Tất cả bốn chữ ấy làm thành một bức họa đẹp vô cùng:

Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý

Hà xứ Xuân Giang vô Nguyệt minh?

Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện

Nguyệt chiếu Hoa lâm giai như tiễn

Tôi dịch:

Dập dồn sóng vỗ dăm xa

Nơi nào mà chẳng Trăng ngà Sông Xuân?

Nước uyển chuyển theo rừng thơm ngát

Nguyệt Hoa kia bàng bạc tươi xinh!

Và nếu ta đi sâu vào ý nghĩa của bài thơ, ta sẽ thấy nhân sinh luôn luôn kế tục như dòng sông từ năm này qua năm nọ vẫn chảy đều, nhưng trong từng sát-na ở thân xác của mỗi cá nhân đều phải trải qua 4 cửa: Thành, Trụ, Hoại và Không… Qua sách vở và kinh nghiệm tự ngộ mà thi sĩ Trương Nhược Hư đã hạ bút như một Thiền Sư :

Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ

Giang nguyệt niên niên vọng tương tự

Tôi dịch :

Kiếp hóa sinh những vô cùng tận

Năm lại năm trăng vẫn như xưa.

Đó là thác vật ngụ tình, hình ảnh mây trắng bay và dòng sông chảy biểu tượng cho cuộc sông triền miên bất định! Thơ Đường có một nghệ thuật tuyệt vời ở nội dung phong phú và hình thức chặc chẽ mà nhà văn Lỗ Tấn đã từng phát biểu:“ Thơ Trung Quốc đến đời Đường có một sự biến đổi lớn”. Có phải muốn chỉ ở việc hình thành một kiểu suy tư Nghệ-thuật và một Hệ-thống Thi-pháp mới của thời đại thi ca hoàng kim đời Đường không?!

Lam Nguyên

Seattle, Xuân tha phương!

{jcomments on}

Leave a Reply

Your email address will not be published.