TƯỞNG NIỆM NHÀ BÁO, NHÀ VĂN, HỌA SĨ NHẤT LINH

 

Tiểu sử: ( Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_T%C6%B0%E1%BB%9Dng_Tam)

Ông sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Nguyên quán của ông là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Ông nội Nguyễn Tường Tam là Nguyễn Tường Tiếp, làm tri huyện Cẩm Giàng, gọi là Huyện Giám, rồi về hưu tại đây. Cụ có người con trai duy nhất là Nguyễn Tường Chiếu (húy Nhu) làm Thông phán, nên được gọi là Thông Nhu, hay Phán Nhu. Ông Nhu mất năm 1918 khi mới 37 tuổi. Ông lập gia đình với bà Lê Thị Sâm,và có được 7 người con, trong đó có 6 con trai và 1 con gái:

Gia đình Nguyễn Tường Tam sống ở Cẩm Giàng, một huyện nhỏ. Cha ông mất sớm, cả nhà lâm vào cảnh khó khăn. Từ bé, anh em Nguyễn Tường Tam đã tiếp xúc với những người nông dân nghèo khổ, điều đó ảnh hưởng đến văn học của Nhất Linh và Thạch Lam sau này.

Cuộc đời và sự nghiệp

Thời niên thiếu

Thuở nhỏ, Nguyễn Tường Tam theo học tiểu học ở Cẩm Giàng, học trung học tại trường BưởiHà Nội. Năm 16 tuổi, Nguyễn Tường Tam làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi ông có bài “Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều” trên Nam Phong tạp chí .

Cuối năm 1923 ông đậu bằng Cao tiểu. Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng, nên ông làm thư ký ở sở tài chính Hà Nội. Ông làm quen với Tú Mỡ và viết cho tờ Nho Phong. Thời gian đó, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên.

Năm 1924, ông tiếp tục học ngành YMỹ thuật, nhưng chỉ một năm rồi bỏ. Năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh nên hai người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Campuchia, sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học.

Năm 1927, Nguyễn Tường Tam sang Pháp du học. Ở nơi ấy, ông vừa học khoa học, vừa nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (, Hóa) và trở về nước trong năm đó.

Hoạt động văn chương

Trở về nước, Nguyễn Tường Tam xin ra tờ báo trào phúng “Tiếng cười”, nhưng lần nào hỏi thăm đều nghe Sở Báo chí của Phủ Thống sứ bảo rằng “chờ xét”. Trong thời gian chờ đợi giấy phép ra báo, ông xin dạy học tại trường Tư thục Thăng Long. Ở đó ông quen biết với thầy giáo dạy Việt văn là Trần Khánh Giư (tức Khái Hưng).

Năm 1932, Nguyễn Tường Tam mua lại tờ tuần báo Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và trở thành Giám đốc kể từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932. Ông chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đả kích các hủ tục phong kiến, hô hào “Âu hóa”, đề cao chủ nghĩa cá nhân…. Trong năm ấy, ông và các cộng sự quyết định thành lập Tự Lực văn đoàn trên nguyên tắc “dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà. Tổ chức không quá 10 người để không phải xin phép Nhà nước, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác noi theo”. Về sau, tính chuyện lâu dài, văn đoàn này mới chính thức tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1934 (báo Phong Hóa số 87).

Tháng 6 năm 1935, báo Phong Hóa bị nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa ba tháng vì loạt bài “Đi xem mũ cánh chuồn ” châm biếm Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu. Sau đó ra tiếp được hơn một năm, thì bị đóng cửa vĩnh viễn (số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936) cũng vì tội “chế nhạo”. Tờ tuần báo Ngày Nay,trước ra kèm với Phong Hóa, tiếp tục và kế tiếp Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nguyễn Tường Tam cùng nhóm Tự Lực văn đoàn phát động phong trào Ánh Sáng, một tổ chức từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống ở thôn quê, trong đó có việc làm nhà hợp vệ sinh cho dân nghèo…

Hoạt động chính trị

Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên là Đại Việt Dân chính Đảng năm 1939 mà ông làm Tổng Thư ký. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai.

Năm 1940, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp bắt và đày lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Tháng 9 năm ấy, báo Ngày Nay bị đóng cửa sau khi ra số 224.

Năm 1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao. Đại Việt Dân chính Đảng thì đã gần như tan rã. Trong thời gian từ 1942 đến 1944, ông học Anh VănHán văn.

Tại Quảng ChâuLiễu Châu ông gặp Nguyễn Hải ThầnHồ Chí Minh mới ở tù ra. Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng ở Liễu Châu, được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh mới được Trương Phát Khuê thả ra. Nguyễn Tường Tam hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng, tá túc với Vũ Hồng Khanh. Tháng 3 năm 1944, tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, tức Việt Cách.

Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang cùng quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh trong tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy. Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia TríNguyễn Tường Bách, lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh, Đại Việt Dân chính đảng sáp nhập với Việt Nam Quốc dân đảng, đồng thời Việt Nam Quốc dân Đảng liên minh với Đại Việt Quốc dân Đảng. Nguyễn Tường Tam làm Bí thư Trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng. Cuối năm 1945, Đại Việt Quốc dân Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng.

Sau khi quân Tưởng vào Việt Nam, đầu năm 1946 Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, sau khi đàm phán với chính phủ, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.

Ông cũng tham gia Quốc hội khóa I đặc cách không qua bầu cử.

Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn Việt Nam dự Hội nghị trù bị Đà Lạt đàm phán với Pháp, mặc dù trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn. Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp, do bất đồng Tam đã không tham gia hầu hết các phiên họp còn theo sử gia David G. Marr Tam là người phát ngôn có năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật đàm phán trong đoàn. Ông được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng cáo bệnh không đi mà rời bỏ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, lưu vong sang Trung Quốc tháng 5 năm 1946 và ở lại Hồng Kông cho tới 1951.

Sau đó xảy ra sự kiện vụ án phố Ôn Như Hầu, lực lượng công an khám xét các của cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng, bắt giữ nhiều đảng viên hai đảng này, và tịch thu được nhiều vũ khí truyền đơn khẩu hiệu chống chính quyền. Khi Nguyễn Tường Tam rời bỏ chính phủ, chính phủ đã tuyên bố ông đào nhiệm và biển thủ công quỹ, tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp đàm phán. Tuy nhiên, theo sử gia David G. Marr, việc biển thủ công quỹ này khó xảy ra, vì ông khó lòng được giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn.

Năm 1947, Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần, Lưu Đức Trung thành lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp ủng hộ giải pháp Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam, chống cả Việt Minh lẫn Pháp, nhưng đến năm 1950 thì mặt trận này giải thể.

Năm 1951, ông từ Hồng Kông về nước, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực văn đoàn, và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt. Tuy nhiên trong Quốc dân Đảng vẫn tồn tại phái Nguyễn Tường Tam, cạnh tranh với hai phái khác.

Năm 1958, ông rời Đà Lạt về Sài Gòn, ông mở giai phẩm Văn hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Năm 1960 ông thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh ThiTrung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.

Ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc quyên sinh để phản đối chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm, để lại phát biểu nổi tiếng

Gia đình

Vợ ông là bà Phạm Thị Nguyên (19091981), quê làng Phượng Dực, Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Tuy là người Tây học, nhưng cuộc hôn nhân này do cha mẹ ông quyết định. Vợ ông trước năm 1945 là chủ hiệu buôn cau khô có tiếng ở Hà Nội mang tên Cẩm Lợi ở số 15 phố Hàng Bè. Bà mất tại Pháp ngày 6 tháng 5 năm 1981.

Ông và bà Phạm Thị Nguyên có bảy người con, gồm năm con trai (Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Tường Thái) và hai con gái (Nguyễn Kim Thư, Nguyễn Kim Thoa).

Nơi an nghỉ

Đêm 7 tháng 7 năm 1963, Nhất Linh đã quyên sinh bằng rượu pha thuốc độc. Theo lệnh của nhà cầm quyền lúc bấy giờ, gia đình phải chôn ông gấp tại nghĩa trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp, không cho đợi người con cả của ông ở Pháp về dự lễ tang.

Năm 1975, Nguyễn Tường Thạch (con trai Nhất Linh) đã hỏa thiêu di cốt của cha, rồi gửi bình tro tại chùa Kim Cương, đường Trần Quang Diệu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1981, vợ ông sang Pháp đoàn tụ với các con, rồi qua đời và an táng tại đó. Năm 2001, các con của ông quyết định đưa di cốt của cha mẹ và của chị gái lớn là Nguyễn Kim Thư về trong khu mộ của dòng họ Nguyễn Tường tại Hội An (Quảng Nam).

Tác phẩm

Tiểu thuyết

Tập truyện

  • Nho phong (1924)
  • Người quay tơ (1926), 11 truyện
  • Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 19321933), 13 truyện
  • Đi Tây (1935)
  • Tối tăm (1936)
  • Hai buổi chiều vàng (19341937), 6 truyện
  • Thế rồi một buổi chiều (19341937)
  • Thương chồng (1961), 6 truyện
  • Những ngày diễm áo (1973)

Tiểu luận

  • Viết và đọc tiểu thuyết (19521961), 5 bài

Dịch phẩm

Di cảo

  • Đời làm báo

Hội họa

Mặc dầu thời gian theo học Trường Mỹ thuật không lâu, Nhất Linh cũng đã để lại một số tranh vẽ trong đó có bức Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa thực hiện khoảng 1926-1929. Bức tranh này năm 2010 được hãng Sotheby’s bán đấu giáHương Cảng với giá 596.000 Đô la Hồng Kông, tương đương với 75.000 Mỹ kim.

Bản tin HX:

Người con út của “gia đình Nguyễn Tường thế hệ Tự Lực Văn Ðoàn” qua đời

* Bản tin cô Trần Thị Lai Hồng chuyển tiếp

 

Cụ Nguyễn Tường Bách , người con út của gia đình Nguyễn Tường đầy tài năng về văn học đã xuất bản hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay cùng thành lập Tự Lực Văn Ðoàn từ thập niên 1930 của thế kỷ trước, vừa qua đời tại bệnh viện Fountain Valley, Nam California, vào lúc 2 giờ 15 phút chiều ngày 11 Tháng Năm, hưởng thọ 97 tuổi. Tin từ gia đình cho hay cụ mất vì tuổi quá cao, thời gian gần đây ngày càng yếu dần, và đã thanh thản ra đi hôm nay.

Cụ Nguyễn Tường Bách. (Hình: Gia đình cung cấp)

Cụ Nguyễn Tường Bách sinh năm 1916 tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, từ một gia đình gốc làng Cẩm Phô, phủ Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam dời ra sinh sống tại miền Bắc từ hai đời trước. Trừ người anh cả Nguyễn Tường Thụy là công chức không dính líu đến văn nghệ và chính trị, các người em em còn lại: Nguyễn Tường Cẩm, Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam, Tứ Ly, Hoàng Ðạo – Nguyễn Tường Long, Nguyễn Thị Thế, Thạch Lam – Nguyễn Tường Lân, và người em út, Viễn Sơn – Nguyễn Tường Bách, đều là những người tham dự vào văn chương.

CÁO PHÓ

 

Chúng tôi đau buồn báo tin cùng toàn thể thân quyến và bằng hữu biết cha, ông, và chú chúng tôi là:

Cụ NGUYỄN TƯỜNG BÁCH

 

đã từ trần ngày 11 tháng 5 năm 2013 tại Fountain Valley, Orange County, California, hưởng thọ 98 tuổi.

 

Linh cữu được quàn tại Westminster Memorial Park, địa chỉ:

14801 Beach Blvd
Westminster CA 92683
800-877-1175 . 714-893-2421

 

Ngày giờ thăm viếng: Thứ Sáu, ngày 24 tháng 5 năm 2013 từ 5:00 PM – 8:00 PM

 

Thăm viếng và cử hành lễ: Thứ Bẩy, ngày 25 tháng 5 năm 2013 từ 9:00 AM – 12:00 PM

(Quan khách phát biểu ý kiến từ 11:00 – 12:00)

tại Westminster Memorial Park, Mortuary Chapel.

 

An táng tại nghĩa trang Rose Hill Memorial. Linh cửu sẽ rời Westminster Memorial Park vào trước 1:00 PM. Bản đồ đến nghĩa trang sẽ được cung cấp.

 

Các con:

Trưởng nam

Nguyễn Hứa Kiên, vợ Ninh Mỹ Dung, và các con

Trưởng nữ

Nguyễn Hứa Lan, chồng Lưu Hán Tuyền, và con

Thứ nữ

Nguyễn Hứa Linh, chồng Tào Cảnh Nguyên, và con

Nguyễn Hứa Loan, chồng Đàm Văn Vĩ, và con

Nguyễn Hứa Anh, chồng Lý Trung Nhân, và con

Nguyễn Hứa Trân, chồng Jenkin Dunn, và các con

 

Các cháu:

*Con Ông Nguyễn Tường Thụy

Nguyễn Tường Hùng

Nguyễn Tường Bá

Nguyễn Thị Nguyệt

Nguyễn Tường Lưu

Nguyễn Thị Nhật

Nguyễn Tường Quý

Nguyễn Thị Hồng

Nguyễn Tường Cường

 

*Con Ông Nguyễn Tường Cẩm

Nguyễn Tường Tâm

 

*Con Ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam

Nguyễn Tường Việt

Nguyễn Tường Triệu

Nguyễn Tường Thạch

Nguyễn Tường Thiết

*Con Ông Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long

Nguyễn Minh Thu

Nguyễn Tường Ánh

Nguyễn Lân

Nguyễn Từ Dung

*Con Bà Nguyễn Thị Thế

Nguyễn Kim Tuấn

Nguyễn Kim Dũng

Nguyễn Kim Sơn

Nguyễn Thị Tuyết

Nguyễn Cao Thị Liễu

*Con Ông Thạch Lam Nguyễn Tường Lân

Nguyễn Tường Kim Nhung

Nguyễn Tường Đằng

Nguyễn Tường Giang

 

Tang gia đồng khấp báo

Xin miễn phúng điếu

 

 

* Thơ Tưởng niệm của Bạch Xuân Phẻ

VIỆT NAM MỘT THẾ KỶ QUA như (Trên) Sông Hồng Cuồn Cuộn
Kính tiễn cụ Viễn Sơn – Nguyễn Tường Bách

Sáng nay, trời trong nắng vàng
trên bầu trời vài đám mây lửng lơ
một ngôi sao sáng, người em út
của gia đình văn chương Nguyễn Tường
và thế hệ Tự Lực Văn Ðoàn
vừa thản nhiên trút hơi thở cuối cùng
nhìn chung
người là một nhân tài của đất nước,
từ một nhà yêu nước đến lưu vong
một bác sỹ, nhà dịch thuật, nhà văn sáng trong
mùi trầm hương đã toả
theo nguyên lý Duyên khởi Phật Đà
mọi sự đủ điều kiện thì sinh,
và đủ điều kiện thì diệt.
Người vừa đi
như sự hiệu hữu bao trùm mọi hiện tượng
bản thể vô lường
bất sinh bất diệt
mộng đời bất tuyệt
như là một sự chuyển tiếp
nhiệm mầu
Hạc vàng vừa bay qua
thảnh thơi mây ngàn
hình thái của sự sống mới
duyên khởi
Đến và đi – sống và chết – có và không
Viễn Sơn Tường Bách thong dong
con đường mây trắng cõi Không đã về
đường xa nắng mới hồn quê
Chân không diệu hữu Người về Phương Tây.

Sacramento, May 12th, 2013 .BXP{jcomments on}

Leave a Reply

Your email address will not be published.