Nguyên tác : I due autisti .
Tác giả : Dino Buzzati (Ý)
Trương Văn Dân chuyển ngữ
“ Dino Buzzati sinh năm 1906 tại Belluno, mất năm
1972 ở Milano (Italia). Trước khi viết văn, ông là
họa sĩ, nhạc sĩ và nhà báo, từng là phóng viên chiến
trường và phụ trách mục phê bình nghệ thuật cho
Corriere della Sera, một nhật báo quan trọng nhất
nước Ý. Với Sa mạc Tartari (1940), tác phẩm đã
được dịch ra nhiều thứ tiếng, ông đã trở thành một
trong những tên tuổi lớn của thế kỷ 20. Nhiều truyện
dài của ông đã được chuyển thành kịch bản sân khấu,
phát thanh và truyền hình. Truyện Con chó gặp Chuá,
đã được trình diễn trên đài truyền hình Pháp.
Ông viết nhiều tiểu thuyết nhưng hình như thể loại
yêu thích của ông là truyện ngắn. Chủ đề quen thuộc
của Buzzati là những ám ảnh và nỗi bất an của kiếp
người, sự chạy trốn thời gian, định mệnh, sợ hãi đối
với hư vô, thất bại của sự sống, mong manh của tình
yêu, bí ẩn của nỗi đau và cái ác…”
Bằng bút pháp độc đáo ông dắt người đọc ra khỏi
cuộc sống thường ngày để bước vào một thế giới
khác, rồi đẩy họ vào những sự kiện nghịch lý, ly kỳ
và đầy bí ẩn. Bí ẩn vì nằm ngoài cánh cửa của đời
sống thường nhật nhưng cũng có thể đồng hiện hữu
với diễn biến thường ngày mà chúng ta đã vô tình
không nhận thấy để cuối cùng phải kinh ngạc, suy
nghĩ… trong một niềm xúc động sâu xa.”
Nhiều năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn còn thầm hỏi
hai người tài xế đã nói gì trên đường chở linh cửu
mẹ tôi đến nghĩa trang .
Ðó là một cuộc hành trình dài hơn 300 km, tuy
đường vắng người nhưng xe đi rất chậm. Lũ con
chúng tôi theo sau bằng xe hơi, giữ khoảng cách
chừng 100 thước, và đồng hồ đánh dấu tốc độ
60 km/giờ. Có thể loại xe tang được chế tạo để di
chuyển chậm nhưng sao tôi cứ nghĩ là có một quy
luật nào đó, xem tốc độ là một điều bất kính với
người đã khuất. Ðiều này hơi vô lý – bởi tôi tin
mẹ tôi sẽ rất thích nếu xe chạy 120 km/giờ, ít ra
cũng tạo cho người cái cảm giác về một chuyến đi
bình thường như những dịp hè về Belluno nghỉ mát.
Bữa đó là một ngày tháng sáu tuyệt vời, hai bên
con đường quen thuộc mà mẹ tôi đã đi qua lại
hằng trăm lần đang hiện ra những cánh đồng
bát ngát mà bây giờ người không nhìn thấy nữa.
Mặt trời lúc ấy đã lên cao, hơi nóng trên đường
nhựa bốc lên làm đoàn xe phía trước giống như
đang lửng lơ trong không khí.
Ðồng hồ vận tốc chỉ 60 km/giờ, xe tang như đứng
yên một chỗ vì có nhiều xe qua mặt , trên đó chở
những người đang sống tự do, hay những cô gái
thả tóc bay trong gió, ngồi cạnh các thanh niên
trên xe mui trần. Rồi những xe cam nhông, kể cả
loại kéo rờ mọt cũng vượt qua phía trước … Tôi nghĩ
sao mà dại thế, phải chi người ta chở linh cửu mẹ tôi
trên một xe thể thao màu đỏ, phóng hết tốc lực để
hiến dâng cho người thêm chút nữa về đời sống thực,
thay vì chậm chạp lăn trên đường như một đám tang.
Bởi những lý do đó nên tôi muốn biết là hai người
tài xế đã nói những gì; một người khoảng ba mươi
lăm tuổi cao chừng thước tám, khuôn mặt hiền lành,
còn người kia cũng to con với màu da sạm nắng. Tôi
thoáng thấy họ ngay từ lúc khởi hành và chợt nghĩ
với vóc dáng như thế, họ không mấy phù hợp với
việc lái xe tang; một chiếc cam nhông chở ống sắt
có lẽ sẽ thích hợp với họ nhiều hơn .
Sở dĩ tôi muốn biết là họ đã nói với nhau những gì
bởi vì đó là câu chuyện cuối cùng của loài người,
những lời lẽ cuối cùng của cuộc sống mà mẹ tôi
còn nghe được; vì trong cuộc hành trình dài và
nhàm chán đó thế nào mà hai gã tài xế không nói
chuyện với nhau. Còn việc sau lưng họ có linh cửu
mẹ tôi thì đối với họ nào có quan trọng gì, dĩ nhiên,
công việc này đã quá quen với họ, nếu không chắc
họ đã chọn nghề khác .
Ðó là những lời cuối mà mẹ tôi còn nghe được vì sau
khi đến nghĩa trang, các nghi lễ của nhà thờ sẽ bắt
đầu, và từ lúc ấy những âm thanh và lời lẽ sẽ không
còn dành cho cuộc sống này nữa, mà dành cho một
thế giới khác.
Họ đang nói với nhau về chuyện gì? Về sự oi bức? Về
thời gian cần thiết khi quay lại? Họ kể chuyện gia
đình hay bàn về kết quả các trận túc cầu bữa trước?
Họ chỉ cho nhau những quán ăn ngon nằm rải rác trên
đường rồi tiếc rẻ vì không ngừng lại được? Hay bàn tán
về xe hơi với những hiểu biết về cơ giới như những
tay sành sõi? Tuy là tài xế xe tang, nhưng có mấy ai
dính líu đến ngành cơ khí mà không đam mê máy móc?
Hay họ tâm sự với nhau về những cuộc phiêu lưu tình
ái?
Mầy còn nhớ con bé tóc vàng bán nước ở cái quán
cạnh cây xăng mà bọn mình thường dừng lại ? Ðúng
là con đó đó. Thôi đừng xạo cha nội, tao không tin.
Thiệt mà, tao thề liền đó… Hoặc họ đang kể cho
nhau những chuyện tiếu lâm tục tĩu? Bỡi vì hai gã đó
cứ tưởng chẳng có ai; cái hòm gỗ đóng kín nằm đằng
sau như không hiện hữu, vì họ đã quên rồi…
Và mẹ tôi phải nghe những lời đùa bỡn ấy cùng với
những trận cười khoái trá? Chắc thế, người đã nghe
và con tim đớn đau của người lại co thắt thêm lên,
chẳng phải vì xem thường hai gã đàn ông lạ mặt mà
chính vì nỗi cay đắng là phải nghe những lời lẽ đó
thay vì nghe giọng nói của những đứa con mà người
hằng yêu thương. Tôi còn nhớ lúc gần đến Vicenza,
khi cái nóng trưa tròn bóng làm rung mờ bóng hình
mọi vật, đã bàng hoàng nghĩ lại là thời gian sau này
tôi đã sống quá ít bên cạnh mẹ. Rồi chợt nghe một
mũi nhọn buốt đau giữa ngực, như người ta thường
gọi là niềm ân hận. Ngay lúc ấy – không hiểu sao
trước đó vẫn chưa hề xảy ra – âm vang giọng nói của
người bắt đầu dội lại trong tôi, của những buổi sáng
đến phòng người trước khi ra tòa soạn: “Mẹ có khoẻ
không? “ “đêm qua mẹ ngủ được “ ( mà tôi biết là
nhờ những mũi thuốc an thần ) “con đi làm nghen
mẹ” “ừ thôi con đi đi ”.
Tôi bước được vài bước trong hành lang thì giọng
nói đầy sợ hãi của người vọng đến: “ Dino!” Tôi quay
lại . “Con về ăn trưa chứ ?” “Dạ” “ Còn bữa cơm chiều?”.
“Còn bữa cơm chiều?” Chuá ơi, trong câu hỏi bình
thường đó có ẩn chứa một ước vọng nhỏ nhoi. Người
không yêu cầu cũng không đòi hỏi gì ở tôi, chỉ nói để
hỏi thăm một tin tức thế thôi. Nhưng tôi đang có những
cuộc hẹn hò ngu xuẩn, với những đứa con gái chưa
chắc đã thương yêu gì tôi, thậm chí còn cóc cần đến
tôi nữa… nhưng ý nghĩ trở về nhà lúc tám giờ ba mươi
tối trong căn nhà buồn thảm, đượm không khí già nua
bệnh hoạn như nỗi chết cận kề đã làm tôi sợ hãi; mà
đã có mấy ai can đảm thú nhận những điều kinh
khủng này, dù rằng rất thật? “Con cũng không biết
nữa, con sẽ điện thoại về sau ” Tôi thường trả lời như
thế. Và tôi chắc thông báo là sẽ không về. Có lẽ
người cũng biết là tôi sẽ nói thế nên hai tiếng “đi đi”
mang một nỗi buồn vô tận. Nhưng tôi là một đứa
con ích kỷ. Ích kỷ như tất cả mọi đứa con.
Lúc đó tôi không hề ân hận, không hề ăn năn hay
có một ray rức nào. ” Con sẽ điện thoại về” và người
đã thừa hiểu là tôi sẽ không về nhà ăn tối.
Mẹ tôi già nua, bệnh tật và biết là ngày tàn sắp đến
nên rất hài lòng nếu tôi về ăn tối ở nhà để bà bớt
cô đơn. Bà chỉ cần tôi hiện diện, dù không nói lời nào
hay đôi khi gắt gỏng về những việc bất như ý trong
ngày. Nằm bất động trên giường nhưng bà sẽ thấy
ấm lòng và được an ủi nếu nghe tiếng lục đục của
tôi ăn cơm trong bếp. Nhưng tôi thì không. Tôi quả
thật là thằng khốn nạn và ngu đần vì trong khi tôi
đi khắp thành phố Milano để vui chơi cùng bè bạn
thì chính đấng sinh thành, điểm tựa thật và duy nhất,
sinh vật có một không hai trên cõi đời có khả năng
thông cảm và yêu thương, trái tim duy nhất có thể
rướm máu vì tôi ( và tôi sẽ không bao giờ tìm được dẫu
sống thêm ba trăm năm nữa ) đang nằm chờ chết .
Tôi chỉ cần nói vài lời với người trước bữa ăn tối về
công việc và sinh hoạt trong ngày, tôi ngồi trên đi
văng và mẹ nằm duỗi cẳng trên giường. Rồi sau bữa
cơm tối, mẹ vui lòng để tôi đi đâu mặc kệ ; người đâu
có tiếc gì, trái lại, còn vui mừng nữa nếu tôi có những
cơ hội giải khuây. Nhưng trước khi ra khỏi nhà để lao
mình trong đêm tối tôi sẽ đến chào người “mẹ đã chích
thuốc chưa ?” “Chích rồi, mẹ hy vọng là đêm nay ngủ được”.
Mẹ chỉ yêu cầu có thế. Nhưng ngay cả điều nhỏ nhoi này
tôi cũng không làm được, do lòng ích kỷ thấp hèn. Bởi vì
tôi là con; và trong sự ích kỷ của kẻ làm con tôi đã không
cần biết là mình đã thương mẹ bao nhiêu. Ðể bây giờ,
trong khoảng khắc cuối đời, trên đường ra nghĩa trang,
người phải nghe những lời tán gẫu, những chuyện tiếu
lâm và tiếng cười thô lỗ của hai gã đàn ông lạ mặt. Ðấy
là món quà cuối cùng mà cuộc đời đã dành cho mẹ.
Giờ thì quá muộn rồi. Không còn gì nữa. Đã muộn quá
rồi. Gần hai năm qua, tảng đá đã hạ xuống để mãi mãi
đóng kín ngôi mộ trong lòng đất, nơi ánh sáng lờ mờ có
linh cửu của ông bà, cha mẹ nằm chồng chất lên nhau.
Ðất đã lấp kín những đường rãnh, đây đó mọc lưa thưa
vài chùm cỏ dại. Mấy chậu hoa mới đặt trong chậu đồng
vài tháng trước giờ phai tàn đến nỗi không còn nhận ra
hình dáng. Không. Những ngày mẹ bệnh hoạn và biết
mình sắp chết chắc chắn sẽ không bao giờ lùi lại.
Mẹ vẫn câm lặng, mẹ không trách móc gì tôi và có thể
là người đã tha tội cho tôi, bởi vì tôi là con của mẹ. Mà
chắc là mẹ đã tha tội cho tôi. Thế nhưng cứ mỗi lần nghĩ
đến, tâm hồn tôi lại bất an. Mỗi một niềm đau sẽ được
khắc lên tấm bia bằng chất liệu diệu kỳ, so với nó cẩm
thạch vẫn còn mềm như đất sét. Và thời gian dù vô tận
cũng chưa đủ để làm nó phai mờ. Sau một triệu thế kỷ
niềm đau và nỗi cô đơn của mẹ do tôi gây ra sẽ còn mãi
mãi. Và tôi sẽ không thể nào cứu vãn. Tôi chỉ còn biết
thở dài, và hy vọng là người nhìn thấy.
Nhưng mẹ không nhìn thấy tôi. Người đã chết, xác thân
bị huỷ hoại, không còn sống nữa hay đúng hơn là chẳng
còn gì ngoài sự mục rữa hình hài đã bị tháng năm xúc
phạm, theo sự phân hủy kinh hoàng và đau đớn của thời
gian. Không còn gì? Ðúng là không còn gì. Mà quả thật
về mẹ tôi đã không còn gì nữa?
Biết đâu! Có khi, nhất là trong những buổi chiều đơn
độc, tôi lắng nghe một cảm xúc lạ lùng. Có một điều gì
đó xâm nhập trong tôi mà trước đó vài giây chưa hề có,
như một bản thể mơ hồ ngự trị trong tôi làm tôi không
còn cô độc, và mỗi cử chỉ, mỗi một lời đều như có
chứng nhân của một linh hồn bí ẩn. Mẹ ! Nhưng phép
lạ chỉ kéo dài rất ít, chừng một giờ rưỡi chứ không
hơn. Rồi sau đó dòng đời lại tiếp tục nghiền nát tôi
dưới những bánh xe khô khốc và bạo tàn của nó.
Trương Văn Dân chuyển ngữ{jcomments on}
“…Mẹ vẫn câm lặng, mẹ không trách móc gì tôi và có thể là người đã tha tội cho tôi, bởi vì tôi là con của mẹ. Mà chắc là mẹ đã tha tội cho tôi. Thế nhưng cứ mỗi lần nghĩ đến, tâm hồn tôi lại bất an. Mỗi một niềm đau sẽ được khắc lên tấm bia bằng chất liệu diệu kỳ, so với nó cẩm thạch vẫn còn mềm như đất sét. Và thời gian dù vô tận cũng chưa đủ để làm nó phai mờ. Sau một triệu thế kỷ niềm đau và nỗi cô đơn của mẹ do tôi gây ra sẽ còn mãi mãi. Và tôi sẽ không thể nào cứu vãn. Tôi chỉ còn biết thở dài, và hy vọng là người nhìn thấy. Nhưng mẹ không nhìn thấy tôi…”
Những gì mình có trong tay, trong mắt, bên cạnh dường như là chuyện bình thường mà đôi khi ta còn không chú ý, không đếm xỉa đến thậm chí còn vô tình làm tổn thương…
Khi mất đi rồi, hoặc không có nữa mới thấm thía hụt hẩng, cần thiết đến chừng nào.
Cám ơn anh Trương Văn Dân đã cho đọc giả một câu chuyện hay.
Tiếp cận một nhà văn nước Ý.
“Những gì mình có trong tay, trong mắt, bên cạnh dường như là chuyện bình thường mà đôi khi ta còn không chú ý, không đếm xỉa đến thậm chí còn vô tình làm tổn thương…
Khi mất đi rồi, hoặc không có nữa mới thấm thía hụt hẩng, cần thiết đến chừng nào.”
Hay lắm Thu Thủy!
Cuộc nhân sinh gói gọn một trăm năm làm sau nỗi đau triệu thế kỹ vẫn còn .
Có những điều không quan tâm, không làm để rồi hối tiếc mãi không thôi! Câu chuyện hay quá anh TVD ơi!
Cám ơn anh rất nhiều và mong được đọc những truyện hay của anh trên trang nhà HX.
QT
Quốc Tuyên và các bạn chắc sẽ còn gặp anh nhiều lần trên trang Huongxua này. trừ phi QT… không cho vào nữa.
đùa tí thôi. cảm ơn em, Thu Thuỷ… và các bạn Hương xưa quen và chưa quen..
nhưng chắc chắn sẽ quen và gặp nhau nhiều lần ở cafe GN, trên bãi biển và dĩ nhiên trên trang web
chúc tất cả luôn vui vẻ
TVD
Truyện ngắn rất hay và cảm động.Cha mẹ lúc già rất cần có con bên cạnh, biết vậy nhưng nhiều khi cuộc đời không cho phép mình thực hiện được những ước mong xem ra có vẻ vô cùng đơn giản ấy.
Cảm ơn Anh Dân đã dịch một câu chuyện thật hay và cảm động .
Văn ở nước ngoài thật lạ, một đám tang không có tiếng kèn áo não và tiếng than khóc thậm chí còn ngược lại nhưng đâu phải vì vậy
mà Tây Phương hời hợt hơn Đông Phương .
cảm ơn Kiều Thanh đã đọc và chia sẻ.
Nhận xét của KT thật sâu sắc và thú vị.
“hỷ nộ ái ố…” thì ở đâu cũng có. Vì chúng ta là con người bằng xương bằng thịt… tuy cách biểu hiện mỗi nơi một khác. Đôi khi câm lặng còn đớn đau hơn mưa nước mắt…
TVD
Cám ơn Dịch giả đã đem văn chương nước ngoài cho bạn bè thưởng thức .
Anh TVD dịch truyện nước ngoài mà lưu loát, lôi cuốn như những truyện ngắn của anh . Một câu chuyện cảm động và rất ý nghĩa, rất cần cho những người con may mắn còn Cha Mẹ trên đời bên mình. Hãy làm gì có thể để Cha Mẹ mình được mỉm cười hạnh phúc khi còn sống trên đời.
Em thích và rất mong đọc được nhiều truyện ngắn của anh trên trang nhà HX này. Cám ơn anh .
cảm ơn Nguyễn Tiết đã động viên..
truyện ngắn này anh dịch để chia sẻ với các bạn trong mùa Vu Lan.
Em và các bạn chắc sẽ gặp anh nhiều lần trên trang web này. trừ phi QT, NT, NTP… không cho vào nữa. hihi
chúc em vui
TVD
Tâm sự người con khi đưa mẹ về cõi khác bao nhiêu hối tiếc vô vàn , hay quá anh TVD ơi!
Một câu chuyện đời thường và rất hay .
Truyện không than van rỉ rả mà rất xúc động .
Văn chương Ý đại lợi thấy hay hay.
“Nhưng trước khi ra khỏi nhà để lao mình trong đêm tối tôi sẽ đến chào người “mẹ đã chích thuốc chưa ?” “Chích rồi, mẹ hy vọng là đêm nay ngủ được”. Mẹ chỉ yêu cầu có thế. ..”
Người chỉ cần có bao nhiêu đó thôi là Người đã cảm thấy hạnh phúc lắm rồi, còn ta đi tìm hạnh phúc ở đâu trong khi đó Mẹ là hạnh phúc, là chỗ nương tựa vũng chắc và quý giá nhất trong cuộc đời này.
Cám ơn Anh TVD đã dịch một câu chuyện như một thông điệp gởi gắm đến mọi người về tấm lòng của Mẹ. Chúc anh vui
Cảm ơn Trương Văn Dân đã dịch một câu chuyện ngắn thật cảm động và rất hay.
Chúc Trương Văn Dân vui, khỏe nhé.