‘Suối Nguồn Tâm Thức,’ một đời thơ của Thái Tú Hạp

Tác giả: Trần Yên Hòa

ANAHEIM, California (NV) – Thái Tú Hạp xuất hiện trong làng thơ Việt Nam rất sớm, khoảng những năm 1963, 1964, 1965.

*Tập thơ “Suối Nguồn Tâm Thức” của Thái Tú Hạp. (Hình: Trần Yên Hòa)

Theo bản tiểu sử được viết trong tuần báo Saigon Times USA, thì anh làm thơ từ những năm 1956. Nhưng theo tôi biết tiếng, thì thơ Thái Tú Hạp xuất hiện cùng thời với Thành Tôn, Hoàng Quy, Nguyễn Nho Sa Mạc, Luân Hoán… lớp làm thơ Quảng Nam từ những năm ấy…

Thời đó, tôi đang theo học trung học, vì mê văn chương nên thường theo dõi những người làm thơ Quảng Nam, có bài đăng ở các báo văn học Sài Gòn, coi đó là thước đo cho những người mới làm thơ… Ai mà có thơ đăng được trong các báo như Bách Khoa, Văn, Văn Học, Giữ Thơm Quê Mẹ… là “ngon” lắm. Thái Tú Hạp có tên trong số đó. Lúc đó tôi chưa biết mặt anh, mà chỉ biết tiếng, vì anh ở tận Hội An, Quảng Nam, cách quê tôi ở đến hơn 40 cây số.

Mãi đến năm 1972, tôi được đổi về làm việc tại Phòng Tổng Tra Quân Đoàn I & Quân Khu 1, thì mới biết và thấy Thái Tú Hạp, anh làm việc ở Khối Chiến Tranh Chính Trị Quân Đoàn, kế cận phòng làm việc của tôi. Biết mặt anh, đọc thơ anh, nhưng chỉ quen biết xã giao, không thân thiết lắm…

Sau này qua Mỹ, mới có dịp liên lạc với anh qua Đặc San Quảng Đà mà anh làm chủ biên, được nhà xuất bản Sông Thu xuất bản hằng năm.

Hằng năm, anh liên lạc với tôi để xin bài cộng tác. Trong lần nói chuyện đầu tiên, nhận thấy anh có giọng nói thật hiền, nhẹ nhàng, thân thiện, điều đó làm điều tôi tâm đắc, cảm tình ngay với con người, mà theo tôi là “hiền lành” đó.

Thái Tú Hạp viết nhiều, in nhiều sách, nhưng thơ vẫn là cốt lõi trong cuộc đời sinh hoạt văn học của anh.

Mới đây, anh có in tập thơ “Suối Nguồn Tâm Thức,” dày đến 740 trang do Sông Thu xuất bản. Trong sách này, phần thơ Thái Tú Hạp chiếm 494 trang, coi như đăng lại tất cả những bài thơ của Thái Tú Hạp làm từ trước đến nay.

Vào sách, Thái Tú Hạp tâm sự trong “Tâm Mở Tình Thơ” rằng: “Trân trọng kính mời những người yêu thơ, bằng hữu đồng điệu tri âm vào thăm ‘Suối Nguồn Tâm Thức,’ dòng thơ tôi gần sáu mươi năm lưu dấu giữa trời mưa nắng phong ba. Có con suối lượn quanh tiếng nước chảy lặng thầm thương cho con sông ngậm ngùi ra biển cả.”

“Suối Nguồn Tâm Thức” đăng lại những bài thơ trong các tập thơ mà  Thái Tú Hạp cho xuất bản trước năm 1975, đó là thi phẩm “Quê Hương Và Người Tình,” bản thảo 1969 và “Thèm Về,” xuất bản năm 1970. Và các thi phẩm xuất bản tại Hoa Kỳ: “Chim Quyên Lạc Ngàn” (1982), “Miền Yêu Dấu Phương Đông” (1987), “Hạt Bụi Nào Bay Qua” (1995)…

Thơ Thái Tú Hạp lúc nào cũng giống như con người anh, hiền hòa, nhẹ nhàng, dù là thơ lục bát hay thơ 5, 7, 8 chữ, như bài “Về” sau đây:

“về đây tìm mảnh trăng gầy
soi tâm tư rã như bầy sao rơi
nghe cồn cát lũ bãi khơi
nghe tình gió thoảng đầy vơi biển sầu
về đây chôn nỗi lo âu
kiếp thời gian lại nguyện cầu đức tin
hồn thơ khoác kín im lìm
ngắm không gian lặng nỗi niềm riêng tư
về đây viết nói sao chừ.”

(trang 13)

Và bài “Thèm Về,” làm chủ đề cho tập “Thèm Về” (1969):

“Đèo heo hút gió chùng sương
trên cao nghỉ ngựa dừng cương thèm về
chiều phong kín ngả sơn khê
non xa mây ngủ trời lê thê buồn
lạc loài cánh nhạn qua truông
thả lơi điệu nhớ não nùng bãi hoang
dưới sâu lũng thấp điêu tàn
nghe mùa gãy đổ nẻo vàng thu ca
cô liêu đàn sến dương tà
lời ru phiến đá cây già hắt hiu
tiếng đưa dã thú rừng chiều
buốt xương gió núi tiêu điều cổ sơ
tóc sương rêu phủ bến chờ
chiều nghiêng cánh gió hồn mơ đăng trình.”
(trang 24)

Đọc qua suốt gần 500 trang thơ của Thái Tú Hạp, không kể những bài thơ được dịch sang tiếng Anh, và những bài viết của các tác giả khác viết về Thái Tú Hạp (khoảng trên 250 trang), có thể chia thơ Thái Tú Hạp theo các phần: Thơ Tình Yêu, Thơ Quê Hương và Thơ Thiền.

Về Thơ Tình Yêu, bài thơ “Mùa Xuân Yêu Em” mà Thái Tú Hạp viết tặng người vợ thân yêu với dòng ghi chú “dành tặng Ái Cầm,” làm tôi tâm đắc nhất:

“mùa xuân từ thuở yêu em
núi non xứ Quảng cũng mềm bước đi
hàng cây nẩy lộc thầm thì
nghe như dòng suối từ bi cội nguồn
mùa xuân từ độ bao dung
tiếng chung thủy ở, tiếng đường mật vui
tiếng hờn ghen, tiếng ngậm ngùi
tiếng đau dao cắt, tiếng mùi mẫn yêu
lúc khuya sớm thuở quê nghèo
lúc chinh chiến lửa phận treo tuổi mình
lúc ngã ngựa, khi tàn binh
lúc non cao vẫn trọn tình thăm nuôi
trùng dương u thảm phận người
quẩn quanh hải đảo tiếng cười đắng cay
xa rồi thác lũ trời tây
đời hư ảo thoáng chim bay cuối ngàn
đất trời thơm ngát lộc non
cho ta xuân thắm vô vàn yêu em.”
(trang 484)

Với thể thơ lục bát nhẹ nhàng, lời lẽ giản dị, đã toát ra tình thương yêu đằm thắm, thủy chung, của một người chồng với người vợ. Dù trải qua bao biến cố của cuộc đời, biến cố 30 Tháng Tư, 1975, phải bị đi tù Cộng Sản, rồi vượt biên… người vợ vẫn theo sát bên chồng, “lúc ngã ngựa, khi tàn binh, lúc non cao vẫn trọn tình thăm nuôi,” để cuối cùng: “cho ta xuân thắm vô vàng yêu em.”

Thơ Quê Hương của Thái Tú Hạp, cũng với những lời thơ giản dị, nhưng tràn đầy niềm tin yêu.

Theo tiểu sử cho ta thấy rằng, anh nhập ngũ vào Quân Lực VNCH theo Khóa 15 của trường Bộ Binh Thủ Đức, ra trường đã theo các đơn vị địa phương quân, rồi chi khu, cuối cùng Thái Tú Hạp về Khối Chiến Tranh Chính Trị/Quân Đoàn I & Quân Khu 1, nên nhà thơ luôn luôn có tình yêu với đất nước, với quê hương, gần nhất là với thành phố Hội An yêu dấu, nơi tác giả sinh ra, thể hiện qua bài thơ “Lòng Mẹ”:

“Dòng sông đó mang tôi vào lịch sử
Mẹ Việt Nam mang dấu đạn đau thương
Tháng năm buồn trôi qua bằng đau đớn
Trong cô đơn chờ đợi nỗi chán chường
Mẹ u hoài vì đàn con đôi ngã
Chiều chiến tranh âm ỉ cháy trong tim
Những mùa đông lửa tàn trong mái lá
Giọng ru sầu hiu hắt nỗi oan khiên
Mẹ ngóng hoàng hôn cửa mòn mỏi đợi
Ngọn đèn khuya soi vách lá quạnh hiu
Mẹ nhớ thương con trời Nam bể Bắc
Chờ tin vui từ sớm nắng mưa chiều
Lòng mẹ khóc từng đêm theo tiếng súng
Nhìn non sông ngun ngút lửa tang thương
Ôi giòng máu quê hương cuồn cuộn chảy
Trong thịt da trong cơ thể điêu tàn.”

(trang 55)

Dù thơ Thái Tú Hạp có đề cập về chiến tranh, về người lính VNCH, nhưng vẫn là những lời thơ nhẹ nhàng, hồn hậu. Cùng nguyện cầu cho quê hương hết chiến tranh:

Xin lời mang tuổi mộng
Rồi ngày mai các anh về đơn vị
Mỗi cánh chim mang nhung nhớ phương trời
Em ở lại già nua đời phố cũ
Bầy tương tư muôn cọi vấn vương đời
…Anh về đâu miền Tây nao nức nhớ
Sớm Hậu Giang chiều Đồng Tháp Cà Mau
Tiếng quân reo dậy đôi bờ Sông Cửu
Tin khải hoàn chuyển lửa ấm tình nhau.”

(trang 19)

hay bài “Mùa Xuân trên Quê Hương”:

“nguyện cầu cho quê hương tàn chinh chiến
lửa hận thù tắt lịm trên môi người
trái tim người tình thương về thắp sáng
khắp đồng quê thành phố dậy reo vui.

luống cày thơm niềm tin trong nắng mới
bước chân về trong mái ấm đoàn viên
tình trong mắt ngời lên bao thắm thiết
giữa trái tim đời thanh thản bình yên.”

(trang 13)

Thơ Thiền Phật Giáo. Theo chỗ tôi biết, Thái Tú Hạp từ nhỏ đã sống với mẹ và gia đình tại một ngôi chùa ở Hội An, nên ông đã thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo từ thuở thiếu thời. Và trải qua bao cuộc bể dâu, đổi thay, tư tưởng ấy vẫn gắn chặt với anh qua các tác phẩm như “Thơ Văn Phật Giáo” (tuyển tập 1993), “Hạt Bụi Nào Bay Qua” (thơ 1995)…

Và trong “Suối Nguồn Tâm Thức” với nhiều bài thơ xin được gọi là thơ Thiền Phật Giáo:

Vô thường yêu em
mắt xưa trăng đẫm non ngàn
lời xanh biếc ngọc vô thường yêu em
lá theo tiếp lục đường chim
hồn mai phục giữa hoa-nghiêm lặng tờ.”

Vô tự
khuya nghe vũ trụ chuyển mình
sáng ra trời đất mới tinh
cỏ cây như vừa tắm gội
chữ nghĩa không còn trang kinh
tâm già nua ta chợt thức
đầu cành giọt nắng nguyên trinh.”
(trang 374)

Đọc thơ Thái Tú Hạp ta thấy nhẹ nhàng, thoải mái, tâm thức bình an như đọc một trang kinh Phật.

Xin ghi nhận xét của nhà phê bình văn học Nguyễn Vy Khanh với thơ Thái Tú Hạp: “Qua thi ca Thiền Vị, Thái Tú Hạp nhờ cơ duyên, đã nhiều lần thành công bày tỏ cảm xúc trước cái thường hằng, cái đẹp tự tại của thiên nhiên, trước cảnh trí của một số tình huống nhân sinh. Nhà thơ nhận ra chân như ở một số hiện tượng, qua liên hệ với con người – người mẹ già, người yêu, bạn hữu, đồng hương, gần bên hoặc đã không gian xa cách, và cả những người muôn năm cũ!”
Trần Yên Hòa [qd]


Thái Tú Hạp sinh Tháng Tư, 1940, tại Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Từ năm 1956 đến 1975 liên tục đăng thơ, văn trên các tạp chí Văn Học Nghệ Thuật ở Sài Gòn.

Trước 1975 là sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Sau 1975 đi tù, vượt biển.

Định cư tại Los Angeles, California, Hoa Kỳ cuối năm 1980.

Tác phẩm đã xuất bản:

-Tuyển Tập Sông Thu (1962, cùng với Thành Tôn và Hoàng Quy).

-Thèm Về (thơ 1970).

-Chim Quyên Lạc Ngàn (thơ 1982).

-Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại (tuyển tập, 1985).

-Miền Yêu Dấu Phương Đông (thơ, 1987).

-Thơ Văn Phật Giáo (tuyển tập, 1993).

-Hạt Bụi Nào Bay Qua (thơ, 1995).

-Giữa Trời Hoa Bay (tùy bút, 2000).

-Suối Nguồn Tâm Thức (2019).
 
 
từ:

 

 

 

Leave a Reply

Your email address will not be published.