Một thời khó quên

Trích hồi ký về người cha thi sĩ

Cũng tại trí nhớ của tôi hơi tốt, giá như có thể quên được. Nhưng tôi không thể quên những ngày ấy được!;

Chân ướt chân ráo gia đình tôi vừa đến nơi ở mới, 73 Phố thuốc Bắc thì ba tôi phải đi “thực tế”. Tất cả Văn Nghệ Sĩ nói chung phải về nông thôn để 3 cùng với nông dân “Cùng làm, cùng ăn, cùng ở”. Đợt thực tập này, ba tôi có lưu ảnh chụp chung với đoàn từ 10 đến 15 người, qua các cột mốc địa danh; vì vậy dễ nhận ra họ đã có mặt trên mọi nẻo đường của Tổ Quốc trong thời cải cách ruộng đất (CCRĐ).

Về với nông dân, cùng làm việc với họ trên từng cây số, tưởng mọi việc như buồm xuôi gió. Nhưng, những định kiến về trí thức của cái gọi là NVGP đối với người nông dân trong thời hậu CCRĐ cũng lắm nhiêu khê. Khi xem giấy giới thiệu ghi là: Ông hay Đồng chí. Nếu là đồng chí thì Chủ Nhiệm HTX kính nể, tin tưởng và dễ làm việc hơn chữ ông. Giấy giới thiệu của ba tôi chỉ ghi chữ Ông!

Tôi được chứng kiến thời gian cuộc CCRĐ đang vào giai đoạn quyết liệt nhất. Lòng căm thù của nông dân đối với địa chủ đang trong thời kỳ dầu sôi lửa bỏng; khắp xóm, làng khí thế đấu tố hừng hực; nhà nhà đấu tố, người người đấu tố! Không có người để tố cũng phải tìm cho ra! Học sinh Miền Nam chúng tôi lúc mới ra Bắc cũng được chứng kiến cảnh đấu tố và xử bắn vài tên “địa chủ cường hào gian ác”.

Ngày ấy, chúng tôi mới tập trung vào trường, ở nhờ nhà dân tại Sơn Tây. Ông Nguyễn Cường – Phụ trách Thiếu nhi xã, đã sử dụng lực lượng chúng tôi để đi tuyên truyền, cổ động đồng bào đấu tố. Chú bảo làm gì, chúng tôi răm rắp nghe theo; biết gì đâu, đứa lớn nhất lớp chỉ hơn 10 tuổi, đứa nhỏ mới 7 tuổi. Cứ chiều chiều, chú tập họp chúng tôi thành hai hàng, dẫn đi khắp hang cùng ngõ hẽm, xóm này đến xóm khác; tay nắm thành đấm, dứ dứ vào không khi. Đáp lại lời chú “Đã đảo địa chủ cường hào gian ác”, chúng tôi hét “đả đảo, đả đảo, đả đảo; một cách hăng say và cuồng nhiệt!”

Trong thôn tôi ở, có một ngôi nhà ngói, chú Cường nói “đó là nhà của thằng địa chủ cường hào”. Tôi không biết cường hào là tội gì nhưng cứ nghe đến chữ đó tôi có cảm giác rất bất ổn mà sao đó chỉ là một ngôi nhà ngói, tường gạch bao quanh, so với nhà ở thành phố thì có gì to tát đâu và giàu có gì, vậy mà cái án “địa chủ cường hào” đã đưa chủ nhà đến dựa cột. Cổng nhà ông lúc nào cũng đóng im ỉm, không bóng người ra vào, hiếm khi ai đó đi ra ngoài, nếu có thì phải cúi gằm mặt xuống đất, không dám ngẩng lên!

Ngang qua nhà ấy, tôi thấy lòng mình trào lên một nỗi thương tâm vô hạng, nhưng nếu nói ra tôi sẽ bị qui là lập trường giai cấp không rõ ràng, không biết phân biệt ta hay địch, thương hại địa chủ là có tội với nông dân v.v…!..

Cũng chính thời gian này tôi được chứng kiến một buổi tố khổ và xử bắn “tên địa chủ gian ác nhất làng”. Nghe người ta nói, những kẻ đứng lên đấu tố ông chính là họ hàng thân thiết của ông!

Sáng hôm ấy, lớp tôi tập họp tại sân gạch để nghe tuyên án. Ban đầu thấy hai, rồi ba người liên tiếp đứng lên, xỉ vào mặt tên địa chủ vừa khóc vừa kể lể tội ác. Sau đó, chủ tọa phiên tòa kết luận “nVì tội ác tày trời, gian ác… tên địa chủ Nguyễn văn A đáng bị xử bắn! Thế là hai anh dân quân đến bẻ quặt tay ông ra sau lưng, lấy vải đen bịt mắt rồi lôi xềnh xệt ông ra, cột vào cây lông não bên kia đường. Và sau đó, một tiếng hô lạnh như thép, khô khốc vang lên giữa buổi trưa hè oi ả “chuẩn bị…, bắn”. Một loạt âm thanh đùng, đùng, đùng; óc ông địa chủ phụt ra, văng tung tóe như bã đậu, mùi tanh đến lộn mữa bốc lên!

Mỗi lần nhớ lại, tôi không sao nuốt được cơm!!!

Đi thực tế, với ba tôi là cơ hội để ông hiểu và cảm nhận sâu sắc nỗi nhọc nhằn, cơ cực của người nông dân. Ông được bố trí vào nhà có hai hộ khẩu. Một là vợ chồng người con trai khoảng hơn ba mươi, có 4 con nhỏ. Bọn nhỏ mặt mày lem luốc, bụng ỏng, đít teo, truồng như nhộng. Và người cha, trạc 60 tuổi, đau yếu, ốm tong teo. Ba tôi đến, nộp đồng lương tháng cho vợ con trai, để được 3 cùng. Ở đây, một vảy cá, một lá rau vô cùng quí giá. Người nông dân ở đây giàu tuổi hơn cả thể lực của mình. Bữa cơm thường là khoai, sắn luộc với khế, cà muối, đắp đổi qua ngày. Người nông dân sao khổ đến thế! đã thiếu thốn cơ cực lại bẩn thỉu, giẻ lau mâm kiêm luôn lau đít cho trẻ. Ông bố bệnh tật, ốm đau mà thằng con chẳng hề đã động đến. Ông bệnh gì mà “bộ phận để phân biệt giới tính” lở loét, chỉ có hai mảnh vải bẩn thỉu che trước, sau để ruồi, nhặng khỏi quấn quýt ông! Cô con dâu keo cú như cứt sắt. Bữa cơm của ông chỉ có những rễ khoai lang bé tẹo, với muối hột. Thiếu rau, dinh dưỡng người ông quắt queo, như ngọn đèn cạn dầu lay lắt trước gió. Thấy tội! ba bưng bát canh của vợ chồng con trai, sẻ cho ông; cô con dâu dằn đũa vào mâm, lầm bầm trong họng, tỏ ý khó chịu. Ả nhận tiền ba đóng, cất đi, chưa mua cho ông một tí chất tươi nào. Cố gắng thôi, phàn nàn, lỡ lãnh đạo biết phê bình có tư tưởng tiểu tư sản, không quần chúng.

Kết quả đi thực tế về, ba tôi bị lao, nằm Viện lao Trung ương. Không nhớ năm nào, chỉ nhớ mẹ con tôi vào thăm ông mấy lần, ông ra cửa đón, đứng ngay tại cổng bệnh viện nói chuyện, ba không cho vào trong, sợ con bị lây bệnh.

Đi thực tế, tôi nhận ra có sự chuyển biến trong ba. Trước, thơ ông có chỗ khó hiểu:

Đảo chờ thơ cõi quạnh,

Vườn phù tang tiếp mây.

Bướm vàng theo mệt cánh

Lạc trong sầu biếc xây

Cheo leo đài vọng-hải,

Mây trắng nghìn tin xa        

Cừ thông hờn nắng bãi,

Nương cát trễ tay ngà

Tôi không hiểu những từ trên cha nói. Nhưng thơ từ trong thực tế ở, ăn, lao động trên thửa ruộng, trên bãi biển cùng người lao động… là tiếng nói thông thường của cuộc sống giản dị, mộc mạc như cách nói của người nông dân len lõi vào trong tôi dễ dàng.

Đất ơi đừng gọi                     Người tôi say sóng

Cánh buồm đang bay          Hay thuyền say tôi

Ngựa-tôi từng cưởi               Tôi say cuộc sống

Trâu-tôi đã cày                      Thuyền say con người

Thuyền-tôi mới lái                Một ngày lao động:…

Trên chặng đường ông đến đều có chông gai, gian khổ, nhưng ông thấy yêu và quí tất cả:

Mái vàng dưới bóng phi lao,

Bốn bên gió thổi rì rào nắng bay.

Nan mui lót dưới ghế thầy,

Ván khoang ghép lại mấy dây bàn trò.

Lưới lau phấn bảng phất phơ,

Dây neo chống bão quàng vô chái hè.

Chương trình sáng giữa liếp tre,

Vang vang tiếng kẻng đổ về thôn trên…

Để rồi lúc chia tay thì luyến tiếc .

Tạm biệt, tạm biệt, này đồi hoa đỏ

Tạm biệt cánh đồng như con mắt biếc

Tôi đến, tôi yêu, tôi về tôi tiếc…

Một người có tâm hồn bén nhạy như ba dễ nhận ra một điều, nhất là qua đợt thực tế vào những năm 1950-60: – Gian khổ, khó khăn không phải là điều đáng sợ. Cái làm cho người ta không chịu được, lúc thì thế này, lúc thế kia, làm cho người ta nghĩ tới giữa nói và làm, giữa lý thuyết và thực hành không đồng nhất, không thuyết phục được tinh thần họ và họ muốn đổi mới.    

Một ví dụ rất cụ thể: Để thực hiện kế hoạch “5 năm đầu Hợp Tác Hóa Nông nghiệp” Trọng tâm của kế hoạch này là tập trung “đưa sản lượng lúa đạt năng suất 5 tấn/ha” Chỉ vậy thôi mà có tới hai cách làm trái ngược nhau: Lúc đầu, ông cán bộ khoa học sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm, về hướng dẫn cho bà con nông dân:

Muốn tăng năng suất ta phải cấy thưa”,

Và thế là chúng tôi ra rả “Cấy thưa thì thừa thóc, cấy dày cóc được ăn”.

Sau một thời gian không kết quả, ông cán bộ khác đi TQ. Ông này về chỉ đạo:

“Ta phải cấy dày thì mới có ăn”

Để bảo vệ luận điểm đó, trên báo có quảng cáo hình Mao Chủ Tịch, khuôn mặt hồng hào, to béo, khỏe mạnh, đứng trên những bông lúa mẩy đều, dày đến độ không thể nào dày hơn nữa mà không bị quằn dưới thân hình bự con của chủ tịch Mao. Chúng tôi nói với nhau “chắc anh phó nháy phải kê ván ở dưới để bác Mao Chủ Tịch đứng???”. Đúng sai thì chỉ có nhà nhiếp ảnh và cụ Mao biết thôi?.

Trong vấn đề này, tôi nghe ba tôi va các chú tranh luận “Sao ta cứ rinh nguyên cách làm của nước bạn để áp dụng vào ta. Mỗi nước có phong thổ, địa lý, đất đai, khí hậu khác nhau, không thể cứ bạn làm sao ta làm vậy, đó là giáo điều…

Trước những việc như vậy, ba tôi có bài thơ “Tĩnh vật”. Cũng vì bài thơ này mà đời ông không vượt nỗi chính mình mấy chục năm sau đó, bởi ông phê phán chủ nghĩa giáo điều rất thẳng thắn và mạnh mẽ :

Họ lấy cả giáo điều rán mỡ làm quay guồng máy nổ

Cùng thời, học sinh chúng tôi là lực lượng trẻ, là cán bộ tương lai của đất nước, chúng tôi phải “phấn đấu, tu dưỡng thành người cán bộ vừa Hồng vừa Chuyên để sau này về phục vụ quê hương”. Muốn làm được điều đó, Bác Hồ luôn đề cao tinh thần: Giữ gìn sự đoàn kết / Tự phê bình / và Phê bình. Bác giải thích :

– “Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình”,”Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình”

Nhưng, thực tế không được như vậy. Ở cơ quan, lớp học, ai dám nói thật. Dịch giả Đào Xuân Quí, là Đảng viên lâu năm, qua Hồi ký “Nhớ lại”; trang 142,:

“Sự thật không phải lúc nào cũng nên nói. Mà khi đã nói, còn phải xem nên nói với ai, nói vào lúc nào, và nói như thế nào nữa chứ! Chao ôi! Chỉ có việc nói sự thật không thôi, mà sao phiền phức, sao khó khăn, rắc rối đến thế nhỉ

Các chú trong Hội nhà Văn bảo “ông Yến Lan hiền lành!“Nói một cách thành thật, ba tôi hiền nhưng không ngố mà lập trường của ông rất kiên định. Ông khuyên tôi: “Chơi với người trên chớ nịnh / chơi với người dưới chớ kiêu”. Điều này xem ra ba tôi không thức thời tí nào, vì, có câu nói ngược lại “thật thà thì thua thiệt, luồn lách lại lên lương”.

Thi tốt nghiệp phổ thông xong, cô bạn thân rủ tôi đưa đơn vào Đại học Ngoại thương Ngoại Giao (NTNG), và  đợi thư trường báo. Nhưng, tôi lại nhận thư Trường Đại học Nông Nghiệp. Cầm phong thư, tôi thẩn thờ, dường như niềm hy vọng bay cao, bay xa trong tôi tắt ngủm! Tôi cho rằng có ai đó không phải với gia đình tôi?! Nếu xét gốc ba đời, nhà tôi chưa ai làm nông, về vóc dáng thì tôi thuộc loại thiếu xương, bé nhỏ, chỉ nặng 35kg. Mà lúc ấy, tôi có một ưu tiên đắt giá nữa là “con em cán bộ Miền Nam tập kết là diện ưu tiên số 1 chọn ngành nghề hợp với sức khỏe, nguyện vọng”.

Đơn xin vào trường Ngoại Thương Ngoại Giao bị trả lại. Nơi đây, con các ông lớn, đã yên vị hết, họ ngâm nga “Nhất Y; nhì Dược; tạm được Bách khoa, Nông nghiệp bỏ qua, Nông lâm cút thẳng”. Trường nông nghiệp gửi thư cho tôi lần thứ hai. Tôi đưa cho ba xem, tưởng ông tìm cách tháo gỡ, nào ngờ cụ lại ca bài Tái Ông mất ngựa “Thôi con! được ngựa không nên mừng, mất ngựa không nên tiếc. Biết đâu ở lĩnh vực này con sẽ là Nhà phát minh, là Anh Hùng Lao Động thì sao!.” Ôi! lúc nào ba tôi cũng gợi mở và hướng cho tôi một chân trời rộng mở, lạc quan đến vậy!

{jcomments on}

0 thoughts on “Một thời khó quên

  1. TT Hieu Thao

    Em đã đọc.Văn hay thơ hay bất luận đề tài nào viết hay là hay viết không nhàm .và vì có kỷ thuật và chân thật… Phải công nnhận chị BT có tài cộng đức , Từ đó tới giờ chị viết ba chị hoài mà càng đọc em càng đam mê ,để khám phá. Rất tiếc con bé em nó không còn giỏi tiếng VN nhiều chứ nó lưu loát tiếng việt sẽ lấy những bài nơi chị và ba chị làm một luận đề để trình bày VN thời ….quá hay đó. Muà hè này cháu làm việc nghiên cứu về con người VN trong chiến tranh (rất công tâm)
    và thơ văn con người HCM ,Nhìn và đánh giá công tâm cách nhìn cuả mình .Nó hỏi em ba cuả HMC có ở lưu ở Bình khê BĐ hở má?
    Nghiên cứu vậy chứ Mỹ cũng trả tiền cho Student đó chị. chúc chị vui.Một ngày em sẽ gọi chị

    Reply
  2. Lâm Bích Thủy

    Chào em MC. Không biết ngày giỗ cụ chị có về được ko. Vì năm ngoái chị đã nói với Bạch Đàn là khi nào đến các ngày lễ chẳn (15, 20, 25…)thì các anh chị lớn mới về. Em biết đó, giờ các anh chị đã về hưu, mỗi người mỗi cảnh, già yếu, điều kiện kinh tế có hạn nên ko tập trung như trước, nên nhà ai, ở đâu giỗ nấy em ạ. Chị rất cảm ơn em đã nhớ về ngày giỗ cụ-đó là tấm lòng của người yêu thơ nhớ về thi sĩ-rất hiếm.

    Reply
  3. Lâm Bích Thủy

    Ôi! Hiếu Thảo ơi là Hiếu Thảo. Cái tên em rất là EM! Chị không tài như em nhận xét đâu, chỉ có tính cần cù và thương hoàn cảnh của ba chị. Con người của ông có đủ 3 chữ T mà người thi sĩ nào có lương tri và tình nhân ái phải có. Thấy ba là người như vậy mà chịu quá nhiều thiệt thòi, nhưng tự mình ko nói ra (tức là gia đình) thì chẳng ai biết. Nếu ko nói thì lớp trẻ làm sao biết được ở Bình Định có một nhà thơ đã làm cho quê hương mình trở nên bất hủ chỉ bằng một bài thơ :Bến My Lăng- mà quê hương lại ko tôn trọng ông bằng người khách trú!
    Chị cũng rất tự hào về cha và từ lòng yêu thương quí trong đó đã giúp cho chị có những bài viết làm cho các nhà nghiên cứu như Thụy Khuê, Lê Hoài Ân, Trần Tiến phải lưu ý.
    Chân thành cảm ơn em và con gái em.

    Reply
    1. TT Hieu Thao

      Hai người kia em không biết, mhưng Thụy Khê em coi nhiều bà viết Phải nói là nhà phê bình number one. Em cũng nể văn NMG thế mà bà chỉ ra nhựng cái giới hạn cuả NMG làm cho t/g chưa đạt thành thấu đáo.ai cũng phải thưà nhận hihhih.Thụy khê là nhà phê bình sắc sảo cảm nhận hay và tuyệt vời …

      Reply
        1. TT Hieu Thao

          em có coi Trần Tiến nưã chứ viết cũng hay. Lê hoài Ân chưa coi Sánh nhà em các anh chị nhà văn ở đây Atlanta tặng cho em như là thư viện mà . Sách quí không đó chị.Võ Phiến người BĐ viết cũng hay lắm về ổng VP em có 3 quyển

          Reply
  4. Lâm Bích Thủy

    Thảo ơi, ông Võ Phiến còn sống ko? Trong họp thư lưu của ba chị có bức thư của ông gửi đó. Hiếu thảo viết tắt NMG là nhà văn nào chị chưa nghĩ ra được.

    Quốc Tuyên em thân mến, chị có xem clip em đang nói về 4 năm ngày thập lập huongxua.
    Cảm ơn em đã xem và đánh giá về bài viết của chị nhé.
    Chị đồng hương LBT

    Reply
  5. Tran kim loan

    Cám ơn chị LBT đã cho em đọc bài viết để hiểu thêm về ba chị (nhà thơ Yến Lan)hiền lành,đức độ! Chúc chị vui khỏe nhé!

    Reply
  6. Lâm Bích Thủy

    Kim Loan em thân mến. Lâu lắm mới được em ghé vào. Hình như có hai Kim Loan?
    Cảm ơn sự lưu tâm của em.

    Reply
  7. ...Thu Thủy

    Cám ơn chị Bích Thủy, đọc bài viết của chị là tái hiện cả một tấm lòng của nhà thơ Yến Lan.

    Reply

Leave a Reply

Your email address will not be published.