Kỳ phùng địch thủ

 

Truyện ngắn của Graham Greene

Chuyển ngữ: Trần Ngọc Phương

Graham Greene (1904-1991) nhà văn Anh, sinh ở Hertforshire, con của một hiệu trưởng, học ở đại học Oxford và chọn ngành báo chí, làm việc cho tờ London Times, từng phục vụ trong bộ ngoại giao Anh ở hải ngoại. Ông đi nhiều nơi trên thế giới, Graham Greene có xu hướng viết những vấn đề tội lỗi và sự chuộc tội con người, thường miêu tả nhân vật chịu nhiều áp lực khác nhau về xã hội, chính trị, hoặc tâm lý. Một số khác thuộc loại trinh thám li kì.

*

Khi người bán dược phẩm đóng xong cửa tiệm để nghỉ tối, hắn đi qua cánh cửa ở phía sau hành lang thông với những tầng trên, hắn lên quá nửa tầng hai và mang theo một hộp thuốc tặng nho nhỏ, trên hộp thuốc có ghi tên và địa chỉ của hắn: Priskett. 14 đường New End, Oxford. Hắn là một người đàn ông trung niên, có hàng ria mép để mỏng và đôi mắt lảng tránh, e sợ. Hắn mặc áo Blouse trắng ngay cả lúc hết phận sự, như thể chiếc áo choàng trắng có uy lực che chở cho hắn như bộ giáp phục nhà vua để chống lại kẻ thù địch. Hắn mặc nó, miễn là hắn có tự do – có thể cho là như vậy – để bớt nỗi gian nan và sự thừa hành.

Cuối mút cầu thang là một cửa sổ – bên ngoài khu Oxford trải dài ra dưới buổi chiều tối của mùa xuân, tiếng ồn ào khó chịu của hằng hà sa số chiếc xe đạp, của nhà máy, trại giam. Những cái tháp hình chóp xám phía bên kia của xưởng bánh mì, kẹo mứt như những đường viền giấy – Trên cánh của lớn có gắn danh thiếp: Ông Nicolas Fennick, Cử Nhân Khoa Xã hội. Người bán dược phẩm nhấn ba lần chuông ngắn.

Một người đàn ông mở cửa ra, ông ta ít nhất là sáu mươi, tóc bạc trắng như tuyết, da dẻ hồng hào như trẻ con. Ông ta choàng áo khoác nhung màu đỏ sậm, cặp mắt kiếng lủng lẳng ở cuối dải băng đen. Ông nói hơi ồn ào:

– A! Priskett. Vào đi. Tôi chỉ vừa đóng cửa không tiếp khách trong một lúc…

– Tôi mang cho ông một ít thuốc viên nữa.

– Quí hoá quá Priskett. Gía gì anh đã tốt nghiệp… Cái xã hội những nhà bào chế thuốc ắt sẽ đủ. Tôi muốn chọn anh làm y sĩ nội trú cho trường đại học St. Ambrose.

– Việc cái phân ban đại học đó như thế nào rồi?

– Hãy vào phòng với tôi một chút rồi anh sẽ rõ.

Ông Fennick dẫn đường xuôi theo một hành lang nhỏ tối tăm để bừa bộn những chiếc áo mưa. Priskett phải đi qua hết cái áo mưa này đến cái áo mưa khác, gây hắn cảm giác khó chịu và sau cùng hắn khựng lại trước một đôi giầy nữ ở trước mặt – Một ngày nào đó – Ông Fennick nói – Chúng ta cần phải xây dựng… – và ông làm một điệu bộ tin chắc với cái mắt kiếng như thể muốn đẩy lùi các bức tường của căn phòng. Trong phòng có một bàn tròn nhỏ được phủ lên với chiếc khăn trải bàn của bà chủ nhà trọ. Ba hoặc bốn cái ghế sáng bóng và một tủ sách cửa kiếng ở bên trong có quyển Mỗi người làm luật sư riêng cho mình.

– Đây, cháu gái tôi, Elisabeth – Ông ta nói – Cố vấn về y học của tôi. Một cô gái rất trẻ có khuôn mặt gầy xinh xắn gật đầu chào chiếu lệ từ bên sau bàn máy đánh chữ – Tôi sẽ huấn luyện cho Elisabeth – Ông tiếp tục – làm thủ quĩ của trường đại học đó. Tình trạng căng thẳng của thủ quĩ lẫn hiệu trưởng làm rối loạn bao tử của tôi. Những viên thuốc… cảm ơn anh.

– Cô nghĩ sao vể trường đại học đó, cô Fennick?

– Tên tôi là Cross – Cô gái nói – Tôi nghĩ đó là một sáng kiến hay. Tôi ngạc nhiên về ý nghĩ ấy của chú tôi.

– Trong một chừng mực nào đó, đấy – phần nào – cũng là ý kiến của tôi.

– Tôi sẽ lại còn ngạc nhiên hơn nữa.

Priskett gấp tay lại trước áo khoác trắng của hắn, như thể đang biện hộ trước toà. Hắn tiếp tục:

– Cô hiểu cho, tôi có khuyên với chú cô là tất cả những phân ban đại học loại này đang được quân đội tiếp quản, và những trợ giáo cho giảng viên đại học, như ông chú của cô, không có việc gì để làm nữa, nên họ cần khởi sự dạy học qua thư từ.

– Dùng ly bia đặc biệt trong ngày kiểm tra sổ sách của trường, Priskett nhé? Ông Fennick đề nghị và rút trong tủ búp-phê ra một chai rượu bia nâu, ông rót ra hai ly sủi bọt.

– Dĩ nhiên – Priskett bào chữa – Tôi không có nghĩ đến tất cả về việc này. Ý tôi muốn nói đến phân khoa đại học St. Ambrose.

– Cháu gái tôi – Ông Fennick nói – Không biết gì nhiều về cơ cấu tổ chức đó. Và ông ta bắt đầu di chuyển không ngừng quanh chiếc bàn, chạm tay vào mọi cái, ông ta – nói đúng hơn – giống như một con chim già đang xem xét miếng mồi, những phần cấu thành tàn nhẫn của nó.

– Theo cháu hiểu – Cô gái liếng thoắng nói – chú đang đeo đuổi một sự bịp bợm cái gọi là một phân-ban-đại-học, thuộc Viện Đại Học Oxford.

– Không phải bịp bợm đâu cháu yêu quí. Trang bài quảng cáo của chú có viết rõ ràng – Ông Fennick phản đối, ông thuộc nằm lòng mọi chữ viết đã kiểm tra lại cẩn thận với cuốn Mỗi người làm luật sư riêng của mình, mở ở trên bàn. Ông lập lại nó với giọng khàn khàn và sôi nổi của chai bia nâu:

Trong hoàn cảnh chiến tranh (1) ngăn cản bạn đến Đại Học Oxford. Phân ban đại học St. Ambrose – trường đại học cũ của Tom Brown – đã làm một sự đột phá quan trọng đối với truyền thống. Chỉ trong giai đoạn chiến tranh, trường sẽ có thể nhận giảng dạy bằng thư từ qua bưu điện đến bất cứ nơi nào bạn ở. Dù bạn đang bảo vệ tổ quốc ở nơi giá lạnh Iceland hay trong vùng cát cháy Lybia, giữa trung tâm thị trấn châu Mỹ hay trong căn nhà tranh nhỏ miền Devonshire…”

– Chú hơi đi quá xa rồi đó – Cô gái nói – Cái đó không lôi được những nhóm có học thức. Nó sẽ không tóm được ai đâu trừ những kẻ khù khờ.

– Có rất nhiều kẻ khù khờ – Ông Fennick nói.

– Cứ tiếp tục.

– Được rồi. Ta nhảy bỏ đoạn này, “Học vị sẽ được ban cấp vào lúc kết thúc học kì ba, thay vì phải ba năm như thường lệ” – Ông giải thích – Cái đó cho vòng quay nhanh chóng. Người ta không thể ngồi chờ tiền trong thời buổi này. “Đạt được sự giáo dục thực sự của Oxford (2) ở phân ban đại học St. Ambrose. Mọi chi tiết về học phí giảng dạy, phí tổn ăn ở… Xin viết thư về thủ quĩ của trường”.

Chú cho rằng viện Viện Đại Học Oxford thực sự không ngăn cản điều đó chứ?

Bất cứ ai Ông Fennick nói với chút kiêu hãnh cũng thể học đại học bất cứ nơi đâu. Chú chưa hề nói trường St. Ambrose một bộ phận của Viện Đại Học Oxford thực sự này mà!

Nhưng phí tổn ăn điều này nghĩa tiền cơm tháng chỗ trọ?

Trong truòng hợp này ông fennick nói hoàn toàn chỉ trên danh nghĩa, để cho tên của họ lưu trử trên sổ sách kế toán của công ty ý tôi muốn nói đến trường Đại Học.

Còn việc giảng dạy…

Anh bạn này đây làm trợ giáo học tập môn khoa học tự nhiên. Chú nhận môn lịch sử văn học HyLa. Chú nghĩ rằng, cháu yêu quí, cháu thể xắn tay vào môn kinh tế được chứ?

Cháu không biết về chúng.

Những cuộc thi cử, nhiên phải khá đơn giản trong khả năng của trợ giáo (ở đây một thư viện công cộng rất tốt), vấn đề khác nữa tiền học phí thể hoàn trả lại nếu không đậu được bằng cấp.

Ý chú muốn nói

Sẽ không ai thi rớt cảPriskett, người bán dược phẩm, nín thở nói xen, giọng kích động sợ hãi.

chú thực sự đang thu được kết quả?

Chú đã chờ, cháu yêu quí, cho tới khi chú thể thấy khả năng rệt của ít nhất sáu trăm một năm cho cả ba chúng ta, trước khi chú đánh điện gọi cháu đến. hôm nay ngoài tất cả sự mong đợi. Chú đã nhận thư từ ngài quí tộc Lord Driver. Ông ta cho ghi tên con trai ông ta vào trường St. Ambrose.

Nhưng làm thế nào ông ta thể đến đây?

Trong thời gian vắng mặt Sở trong xứ của ông ấy. Gia đình họ Driver luôn luôn một gia đình quân sự lớn. Tôi tìm ra họ miền Debrett.

– Cô nghĩ gì về việc này? Priskett hỏi, giọng hân hoan nhưng cũng hơi lo âu.

– Tôi nghĩ, gia đình ấy giàu có. Ông đã sửa soạn cho cuộc đua chưa?

– Đó, đã bảo mà anh Priskett – Ông Fennick nói với vẻ kiêu hãnh và nâng ly bia lên. – Tôi đã nói với anh. Nó là cô gái lắm mưu kế.

 

**

 

Lão nhận ra ngay bước chân của bà chủ nhà – người đàn ông sắp già đầu hoa râm, tóc húi cua – liền bắt đầu đặt những lá trà ướt quanh chân cây hoa kiểng Aspidistra (3). Khi bà ta mở của, lão lấy tay vỗ nhè nhẹ vào chiếc lá và nói: Cái cây dễ thương yêu quí của tôi.

Nhưng gương mặt bà ta không dịu ngay, bà vẫy vẫy ra một bức thư trước mặt lão: Nghe đây – bà nói – Đây là loại công việc gì của Lord Driver, ngài đại quí tộc?

– Tên tôi đó, bà chủ thân mến, một tên thánh đẹp.

– Rồi, nhưng tại sao người ta không ghi là ông Lord Driver (4) trên phong bì.

– Ngu dốt, chỉ vì ngu dốt.

– Tôi không muốn bất cứ trò bịp bợm nào xảy ra trong nhà của tôi. Ở đây luôn luôn phải lương thiện.

– Có lẽ họ không biết tên của tôi là quí tộc hay là dân thường nên không ghi ngài hoặc ông. Thế họ bỏ lửng.

– Nó được gởi từ trường St. Ambrose, Đại học Oxford. Người ta phải biết điều đó chứ.

– Nó đến, bà chủ thân mến, một địa chỉ tốt như địa chỉ của bà … – Lão chộp lấy bức thư với vẻ thiếu can đảm, nhưng bà chủ nhà đã thu nó khỏi tầm tay của lão.

– Những người thuộc loại như ông viết thư đến Đại học Oxford làm gì?

– Bà chủ thân mến – lão nói với vẻ nghiêm trang gượng ép – Tôi có lẽ có một chút không may mắn, có lẽ ngay cả đã trải qua vài năm ở Chokey. Nhưng tôi có quyền của một người tự do.

– Còn con trai ông đang ở trại giam.

– Không phải trại giam, bà chủ thân mến. Borstal (5) ở trong thể chế hoàn toàn khác. Nó là một loại trường…

– Như trường St. Ambrose?

– Có lẽ, hoàn toàn không cùng loại như thế.

Lão thì quá rõ đối với bà, lão rõ nhiều đối với bà. Buổi đầu của lão trước khi lão ở Scrubs, lão có giữ một số những chức vụ của người hầu ngay cả chức quản gia. Cái lối nhướng mày của lão, lão học được ở ngài Lord Charles Manville. Lão mặc đồ giống như người quí tộc lập dị, và người ta nói rằng, ngay cả lão đã học được cách ăn cắp vặt tốt nhất từ ngài Lord Bellow, kẻ có xu hướng thích thú về những cái muổng bằng bạc.

– Và bây giờ, bà chủ thân mến, xem bà có trao bức thư cho tôi không? Lão đưa tay ướm ướm về phía trước. Lão đe doạ bà cũng như bà đã đe doạ lão. Họ đã đấu khẩu nhau không ngừng và thua lẫn nhau. Trận chiến diễn ra liên miên nhưng không bao giờ có kẻ thắng, họ luôn luôn e sợ nhau. Và lần này, đây là chiến thắng của lão. Bà ta đóng sầm cánh cửa lại. Khi cánh của vừa đóng xong, bất thình lình lão làm om sòm một cách dữ tợn và thô bỉ với cây Aspidistna. Rồi lão đeo mắt kính lên và bắt đầu đọc.

Con trai lão đã được chấp nhận vào trường đại học St. Ambrose, Oxford. Sự kiện lớn lao này lộ ra rành rành trước mắt. Phía trên có chữ kí nghuệch ngoạc kiểu cọ của ông hiệu trưởng. Chưa bao giờ lão thấy cảm ơn nhiều về sự trùng khớp tên như thế. “Sẽ là điều sung sướng lớn lao”, ông hiệu trưởng viết, “đích thân ngài chú ý tới sự nghiệp con của ngài ở đại học St. Ambrose. Trong những ngày này, thật là một niềm vinh dự được đón tiếp một thành viên trong gia đình quân sự lớn như gia đình của ngài”. Driver cảm thấy một sự pha trộn kỳ quặc giữ thích thú và niềm kiêu hãnh thành thật. Lồng ngực lão nở phồng trong chiếc áo ghi-lê với ý nghĩ rằng – Lão bây giờ có đứa con trai học ở Đại học Oxford.

Nhưng có hai trở ngại – hai trở ngại nhỏ khi lão ngẫm nghĩ lão đã đạt tới chừng mức nào rồi. Rõ ràng là theo tiền lệ của Đại Học Oxford học phí phải được trả trước và tiếp đến là các cuộc thi cử. Con lão không thể tự mình làm được, trường trại Borstal không cho phép điều đó, và nó cũng sẽ không được ra ngoài trong sáu tháng tới. Vả lại, toàn thể cái hay của ý đồ đó nữa là nó sẽ nhận được một học vị, như tặng phẩm chào đón thuận lợi khi nó trở về.

Và giống như một người chơi cờ luôn luôn có nhiều bước đi ở phía trước, lão tìm thấy được những con đuờng chung quanh để vượt qua những khó khăn đó.

Về học phí, lão cảm thấy chắc chắn, trong trường hợp của lão, chỉ là vấn đề của một lời lừa gạt. Một người quí tộc luôn luôn nhận được lòng tin của mọi người và nếu có chút rắc rối gì sau khi mảnh bằng đã được trao, lão chỉ có thể nói với họ hãy thưa kiện đi và cứ chửi rủa. Chắc chắn không một trường Đại học Oxford nào muốn thú nhận rằng họ đã bị lợi dụng bởi một tên tù khổ sai già.

Nhưng còn về các cuộc thi. Một nụ cười hơi ranh mãnh và ngộ nghĩnh kéo giật khoé miệng của lão. Kí ức về Scrubs của lão năm năm trước đây, một người được gọi là bố già: Đức cha Simon Milan. Cha là một tù nhân ngắn hạn – Tất cả họ là những tù nhân ngắn hạn ở Scrubs, không có án nào quá ba năm mà từng được tống vào đó. Lão nhớ đến một cha xứ cao gầy, dòng dõi quí tộc, có mái tóc xám và khuôn mặt hẹp như khuôn mặt của luật sư và gương mặt đó đã đi nhè nhẹ vào lòng với bao thương mến. Một nhà giam, khi người ta bỏ ra chút suy nghĩ về nó, ở đó nó chứa đựng nhiều tri thức như một Viện đại học, có các bác sĩ, các nhà tư bản, các tăng lữ. Lão biết nơi đó lão có thể tìm thấy cha Milan, cha được thuê làm ở một nhà nấu cơm tháng gần quảng trường Euston, và chỉ cần vài cốc rượu cha có thể làm được rất nhiều việc – cha chắc chắn có thể trả lời được câu hỏi của các bài thi. “Ta có thể hoàn toàn nghe được cha bây giờ…” Driver tự nói với mình, trong trạng thái mê ly ngây ngất, “…đang nói tiếng la tinh với cai ngục”.

 

***

 

Ở Oxford, trời đã vào thu. Trong tình trạng chiến tranh, cảnh huyên náo nhộn nhịp lâu đời ở Đại học Oxford bị tống ra các khu chợ trời ở Woodbines, ở đó họ tranh nhau buôn bán trong cảnh bát nháo. Có quá nhiều đồ thừa thãi cho những tên ăn cắp – Elisabeth nghĩ – Nhưng có quá ít cơ hội cho một cô gái kiếm được một tấm chồng.

Vài ngày đầu trong mùa xuân vừa qua, Elisabeth coi trường St. Ambrose như một trò đùa, nhưng khi cô thấy tiền bạc thu về thật sự, tất cả mọi thứ dường như kém thú vị với cô, cô khổ sở hết sức cho tới khi nhận ra rằng, trong tất cả những cảnh huyên náo om sòm của thời chiến, đây là cái ít vô hại nhất. Họ không cắt giảm hàng cung cấp như Bộ lương thực hoặc phá huỷ lòng tin như Bộ thông tin. Chú cô đã trả thuế lợi tức và họ ngay cả trong chừng mực nào đó, đã giáo dục con người. Những kẻ khù khờ, khi nhận được bằng cấp học vị họ sẽ biết được nhiều thứ mà họ chưa từng biết trước đó.

Nhưng điều này cũng không giúp cho cô gái tìm ra được một tấm chồng.

Elisabeth buồn rầu rời khỏi buổi biểu diễn nhạc kịch, trong tay mang theo một bó giấy tờ bài thi cô phải sửa chữa. Chỉ có một “sinh viên” đã tỏ ra có chút gì đấy thông minh, đó là con của nhà quí tộc Lord Driver. Những bài thi được gởi chuyển tiếp từ “một nơi nào đó trong nước” qua ngã London bởi cha của hắn. Cô tự mình suýt tìm bắt gặp được nhiều lần về phương diện lịch sử. Còn chú cô – cô biết – đang bị căng thẳng với mớ Latinh cùn có giới hạn của ông.

Khi về đến nhà, cô đánh hơi có điều gì khác lạ. Ông Priskett, người bán dược phẩm, trong chiếc áo choàng trắng, đang ngồi trên mép ghế và chú cô thì làm cạn một chai bia để đã lâu. Khi có điều gì đó sai lầm, ông không bao giờ mở một chai bia mới, cái im lặng của ông Priskett thì u ám, của chú cô thì lo lắng. Có điều gì đó cần phải được lẫn tránh. Nó không thể là của nhà đương cục Viện Đại học Oxford, họ đã ngưng quấy rầy lâu rồi trước đây, thư của luật sư, cuộc gặp gỡ phỏng vấn dễ cáu và những cố gắng nổ lực của họ để duy trì “sự độc quyền của nền giáo dục địa phương” lúc ông chú Fennick lập ra cái phân-ban-đại học Oxford – đã ngừng.

– Xin chào – Elisabeth nói.

Priskett nhìn “hiệu trưởng” Fennick, còn “hiệu trưởng” Fennick thì cau mày.

– Ông Priskett đã cạn thuốc rồi phải không?

Priskett rụt người lại.

– Tôi nghĩ – Elisabeth nói – bởi vì chúng ta đang ở trong học kì thứ ba của năm học. Tôi muốn được tăng lương.

Priskett hít một hơi đột ngột, y tiếp tục gắn mắt vào ông Fennick.

– Tôi muốn được ba bảng nữa trong một tuần – Elisabeth nói.

Ông Fennick từ bàn đứng dậy, ông nhìn trừng trừng vào ly bia, mày ông cau lại. Người bán dược phẩm nhích lui cái ghế một chút về phía sau. Ông Fennick nói:

– Chúng ta đang ở trong tình huống đặc biệt…

Ông ngưng lại tiếp tục suy nghĩ. Elisabeth và Priskett quay sang sửa chữa bài thi.

– “Những tính khí”

– “Tròn bởi giấc ngủ, và những pháo đài đồn luỹ này của chúng ta”.

– Trích dẫn sai rồi.

– “Biến vào trong không khí, trong không khí loãng”.

– Trừ phi các vị hãy để tôi suy nghĩ, phải suy nghĩ nhanh chóng, phải suy nghĩ kỹ lưỡng, nếu không, sẽ không còn có bài thi nào nữa – Rốt cuộc “hiệu trưởng” Fennick phải thốt lên.

– Có điều gì rắc rối?

– Tôi luôn luôn là một người cộng hoà trong máu thịt. Tôi không hiểu tại sao ta lại cần đến hàng quí tộc cha truyền con nối.

Treo cổ hết lên cột đèn! (6) – Elisabeth vọt miệng nói.

– Người này, ngài Lord Driver, tại sao đó là điều rủi ro của sự ra đời…

– Ông ấy không trả tiền?

– Không hẳn phải thế. Một con người như thế nên kì vọng tin tưởng. Đúng là ông ta có lòng tin, nhưng ông ta viết thư nói rằng ông ta sẽ ghé đến thăm vào ngày mai, để xem cái trường của con ông. Một lão có đầu óc nhạy cảm đần độn.

– Cháu biết sớm muộn gì chú cũng bị rắc rối.

– Đó là một hạng khù khờ chết tiệc, cái đồ bỏ, các cô sẽ nói thế.

– Chỉ cần trí tuệ. – Elisabeth nói.

Ông Fennick cầm cái gạt tàn thuốc lá lên rồi lại đặt nó xuống cẩn thận.

– Điều đó hoàn toàn đơn giản ngay khi các vị bắt đầu chịu suy nghĩ. – Elisabeth nói.

– Suy nghĩ?

Priskett kéo xích chân ghế.

– Cháu sẽ gặp ông ta ở nhà ga xe lửa với chiếc ta-xi và đưa ông ta đi. Dẫn thẳng ông ta vào sân trong của trường và chú sẽ ở đó, coi có vẻ như chú vừa ra khỏi nhà riêng hiệu trưởng.

– Ông ấy sẽ biết. – “Hiệu trưởng” Fennick lo ngại.

– Ông ta không biết đâu. Bất cứ ai biết Oxford, không thể lại quá khù khờ để gởi con vào trường St. Ambrose.

– Dĩ nhiên. Đó là sự thật. Những gia đình quân sự này có chút dốt đặc.

– Chú sẽ phải ở trong tình trạng hết sức vội vã. Lễ lộc hoặc một điều gì đó, đại loại như thế. Đẩy lão quanh phòng đại sảnh, nhà thờ, thư viện và trao lại cho cháu ở phía bên ngoài nhà hiệu trưởng. Cháu sẽ đưa lão đi ăn trưa và tống lão lên xe lửa. Đơn giản chỉ có thế.

Ông Fennick nghiền ngẫm nói:

– Đôi khi, chú nghĩ cháu là một cô gái đáng nể, rất đáng nể. Không điều gì mà cháu không nghĩ ra được.

– Tôi tin rằng – Elisabeth nói – Nếu quí vị chơi trò chơi riêng của mình trong thiên hạ, như cái trò chơi này, quí vị phải chơi nó thích hợp. Tuy nhiên – Cô tiếp tục nói – Nếu quí vị sắp chơi trò chơi khác, quí vị chỉ đi đến chân tường hoặc vào nữ tu viện, hay một cái gì đại loại như thế. Nhưng riêng tôi, tôi chỉ có một trò để chơi!

 

 

****

 

Công việc được tiến hành khá trôi chảy. Lão Driver tìm thấy Elisabeth ở trước cổng chắn nhà ga xe lửa. Cô không nhận ra lão ngay, bởi vì cô đang chờ đợi một điều gì khác. Một điều gì về lão làm cô lo nghĩ. Đó không phải là lối y phục ăn mặc của lão, hay cái kiếng một mắt mà lão dường như chưa bao giờ dùng tới. Một điều gì đó phảng phất khó thấy hơn chuyện đó. Nó dường như là, lão e sợ cô. Lão khá sẵn sàng để rơi vào kế hoạch của cô.

– Tôi không muốn phiền hà, cô gái thân mến, không muốn phiền hà chút nào.Tôi biết ngài hiệu trưởng ắt hẳn là bận rộn lắm.

Khi cô cắt nghĩa rằng, họ sẽ cùng đi ăn trưa với nhau trong thành phố. Driver dường như cảm thấy yên lòng.

– Đúng là những con người hào hiệp ở nơi đáng kính – Lão nói – Cô chắc không phiền gì về con người đa cảm của tôi chứ, cô gái?

– Ngài đã ở Oxford?

– Không, không. Gia đình Driver, tôi e rằng, tôi đã sao nhãng lẫn lộn mọi thứ trong đầu.

– Sao thế, tôi cho là một quân nhân cần có trí tuệ?!

Lão liếc nhìn một cái sắc bén về cô, và trả lời bằng thứ giọng hoàn toàn khác – Chúng tôi tin thế. Rồi lão đi bộ cùng cô đến chỗ xe ta-xi. Suốt đoạn đường từ lúc rời khỏi ga, lão hoàn toàn im lặng, chỉ vân vê cái kiếng một mắt, liếc nhìn cô, đánh giá, và tán thành.

-Thế…, đây là trường St. Ambrose. – Lão nói giọng nồng nhiệt lúc đến gần nhà người gác cổng. Cô thúc lão qua nhanh, đi băng qua sân trong đầu tiên, hướng thẳng về nhà hiệu trưởng. Ở đó, trên ngưỡng cửa, với chiếc áo khoác trợ lý vắt qua tay, ông Fennick đứng bất động chờ sẵn, tư thế giống như một mẫu tượng điêu khắc trong vườn.

– Chú tôi. “Hiệu trưởng” trường. – Elisabeth nói.

– Một cô gái đáng yêu, cháu ngài ấy – Driver nói, sau khi chỉ còn họ lại với nhau. Lão thực sự chỉ muốn gợi chuyện để nói. Nhưng ngay khi lão nói, hai tâm hồn già quanh co bắt đầu đi đến sự hoà hợp.

– Cô ta rất có tình gia đình – “Hiệu trưởng” Fennick nói – Những cây du của chúng ta – ông tiếp tục và vẫy tay lên bầu trời – Những con quạ của trường St. Ambrose. (7)

– Những chỗ cong queo? (8)

– Những con quạ trên cây du. Một trong những thi sĩ vĩ đại của chúng ta đã viết về chúng. “Những cây du St. Ambrose. Ôi, của những cây du St. Ambrose” và về “những con quạ St. Ambrose đang kêu gọi trong mưa gió”

– Khá, rất khá.

– Tôi nghĩ ngược lại, khá hay.

– Ý tôi muốn nói đến cô cháu gái của ngài.

– À, vâng. Đây là đường dẫn đến đại sảnh. Lên những bật thang này… Tom Brown thường đặt chân đến. Ngài biết Tom Brown?

– Tom Brown là ai?

– Tom Brown vĩ đại, một cầu thủ danh tiếng về môn bóng bầu dục – Và ông Fennick thêm vào một cách thận trọng – Đứa cháu gái ấy sẽ là một người vợ, một người mẹ tốt.

– Những người trẻ tuổi đang bắt đầu nhận ra rằng, những cái phù phiếm không là điều họ cần cho cả cuộc đời.

Họ bằng lòng dừng lại ở bước đi cuối. Họ chỉa mũi vào nhau, giống như hai kẻ mù già tham lam, mỗi kẻ tin rằng cái gì làm động đậy ở gần hắn là miếng mồi ngon.

– Bất cứ ai lấy được cô ta – Ông Fennick nói – có thể tự hào. Cô ấy sẽ là một bà chủ nhà tuyệt vời… – ông thầm nghĩ tiếp – như là phu nhân nhà Driver tương lai chẳng hạn.

– Tôi và con trai tôi – “Ngài” Driver nói – đã bàn luận một cách nghiêm chỉnh về hôn nhân. Nó phần nào theo quan điểm kiểu cũ. Nó sẽ là một người chồng tốt…

Họ đi vào phòng đại sảnh và ông Fennick dẫn đi quanh các bức chân dung – Người sáng lập của chúng ta – Ông nói và trỏ vào bộ tóc giả phủ cả gáy của bức chân dung. Ông chọn nó một cách có tính toán. Ông cảm thấy nó có nét phảng phất của chính ông. Trước chân dung của Swinburne (9) ông do dự rồi kiêu hãnh về lời cảnh cáo đầy sức thuyết phục – Một thi sĩ vĩ đại – Chúng tôi đã đuổi ông ta ra khỏi trường.

– Tống ra khỏi trường?

– Vâng, đạo đức tồi.

– Tôi rất vui mừng ngài nghiêm khắc về điều đó.

– Ồ. Con trai ngài sẽ ở trong bàn tay tin cậy của St. Ambrose.

– Cái này làm tôi sung sướng – Driver nói, lão bắt đầu xem xét kĩ bức chân dung của nhà thần học thế kỉ mười chín. Bức hoạ đẹp – Lão nói – Bây giờ, tôn giáo. Tôi tin vào tôn giáo. Nền tảng của gia đình – Lão nói giọng tin tưởng – Ngài hiểu cho, những người trẻ tuổi của chúng ta nên gặp gỡ nhau.

Fennick loé lên một tia sung sướng: Tôi đồng ý.

– Nếu nó thi đậu…

– Ồ! chắc chắn anh ta sẽ đậu – “Hiệu trưởng” Fennick nói.

– Nó sẽ nghỉ phép trong một hai tuần. Và tại sao không phải đích thân nó tới nhận bằng cấp của nó.

– Ô! cái này gay go đấy.

– Điều đó không đúng theo thủ tục phải không?

– Phải, đối với những người tốt nghiệp đại học kiểu hàm thụ. Ngài hiệu phó muốn có một sự phân biệt nhỏ. Nhưng, ngài Driver, trong trường hợp đặc biệt như thế, nguyên là sinh viên đại học, tôi đề nghị rằng tôi sẽ được uỷ nhiệm đến trao học vị cho con trai của ngài ở thủ đô London.

– Tôi muốn nó được thấy trường đại học của nó …

– Và như thế cậu ấy sẽ có những ngày hạnh phúc hơn. Bây giờ có quá nhiều trường bị đóng cửa, tôi muốn cậu ấy đến viếng thăm trường đại học vào buổi đầu, khi thanh danh nó được hồi phục lại.

Cho phép tôi và cháu gái tôi được đến gặp các vị ở London.

– Chúng tôi đang sống rất yên lặng.

– Tôi hi vọng không có rắc rối nghiêm trọng về tài chính chứ?

– Ồ. Không. Không.

– Tôi rất vui mừng. Và bây giờ chúng ta hãy quay lại chỗ cô gái thân mến.

 

*****

 

 

Dường như gặp gỡ nhau ở những nhà ga xe lửa thì luôn luôn thích hợp với họ hơn. Sự trùng khớp ngẫu nhiên không gây chú ý ở ông Fennick, kẻ tự củng cố mình trong cuộc hành trình đến London bằng khá nhiều rượu bia. Nhưng nó làm cho Elisabeth phải chú ý. Trường đại học gần đây đã không đáp ứng được những điều mong đợi, có phần nào do bởi sự biếng nhác của ông chú “Hiệu trưởng” Fennick. Từ buổi trò chuyện vừa qua, dường như ông ta bắt đầu nhìn trường đại học chỉ như là một bước đi để tiến đến một điều gì khác nữa. Điều gì cô chưa thể hình dung ra hoàn toàn được. Ông ta luôn luôn nói về “ngài” Lord Driver và đứa con trai lão, về những trách nhiệm của hàng quí tộc. Những xu hướng cộng hoà trong con người ông hoàn toàn đã mất hiệu lực – Chàng trai đáng yêu đó – là cái lối ông nhắc đến Fredenick và ông chấm điểm hắn 100% về môn văn học Hy-La. Thường thì tiếng Hy Lạp và La Tinh không đi cùng với tài năng quân sự – Ông nói – Một chàng trai xuất sắc.

– Anh ta khá tồi về môn kinh tế – Elisabeth nói.

– Chúng ta không đòi hỏi quá nhiều tri thức sách vở từ một quân nhân.

 

Tại London, khu Paddington. Lord Driver đang lo lắng vẫy tay ra hiệu với họ qua đám đông, lão mặc một bộ đồ rất mới – lão rùng mình khi nghĩ đến bao nhiêu phiếu mua hàng đã đầu tư liều cho cơ hội này. Phía sau lão một chút là một gã thanh niên còn rất trẻ có một vết sẹo trên gò má, mặt mày nhăn nhó ủ rũ. Ông hiệu trưởng Fennick hối hả tiến về phía trước, cái áo mưa màu đen khoác qua vai giống chiếc áo choàng không tay, cái mũ ông cặp vào tay để lộ trần mái tóc bạc trắng đáng tôn kính giữa đám phu khuân vác.

– Con trai tôi, Frederick – Lord Driver nói. Chàng trai buồn rầu ngả mũ ra chào và đội lại nhanh chóng. Họ cùng có kiểu tóc cắt rất ngắn của quân đội.

– St. Ambrose hân hạnh chào mừng tân sinh viên tốt nghiệp.

Frederick lầm bầm.

Việc trao văn bằng học vị được tiến hành ở một phòng riêng. Lord Driver giải thích rằng nhà của ông ta bị đánh bom – bom nổ chậm, lão thêm vào. Một sự cắt nghĩa khá cần thiết, từ khi không còn có những cuộc oanh tạc đột kích bằng máy bay của quân địch. Hiệu trưởng Fennick sẽ hài lòng hơn nếu ngài Driver có được cái như thế: Ông khoác lên cái áo choàng trợ giáo học tập của trường đại học, đội lên cái mũ vuông, kiểu mũ thuộc trường đại học và rút ra quyển kinh thánh từ trong cặp. Ông làm một nghi lễ hết sức đường bệ, giữa cái bàn để sách, cái ghế so-fa và cái lò sưởi. Ông đọc lớn bài diễn văn bằng tiếng La Tinh và khẽ vỗ quyển kinh thánh lên đầu Frederick. Mảnh bằng học vị đã được in một cách đắt tiền bằng hai màu ở hãng người Ăng-gô theo đạo thiên chúa.

Elisabeth là người duy nhất tỏ ra khó chịu ở đó. Có thế nào trên cõi đời này – cô tự hỏi – thực sự chứa đựng đến hai kẻ khù khờ như thế chăng? Một cảm giác gì đó đau đớn gia tăng gia tăng lên trong cô khi cô nghĩ rằng, có lẽ nó chứa đựng đến những bốn?

Sau bữa ăn nhẹ với rượu bia nâu – Phần lớn nói chung là tốt đẹp, nếu tôi được phép nói như thế, như ly bia của chúng ta. – Fennick tươi cười rạng rỡ. Ngài “hiệu trưởng” Fennick và ngài “đại quí tộc” Lord Driver cố ý rời chỗ một cách tinh tế để buộc khéo hai người trẻ tuổi phải cùng nhau ra ngoài. – Chúng tôi cần trao đổi chút công việc – Ông Fennick nói, và Lord Driver gợi ý nhẹ nhàng: Con đã không đi đến những nơi ”chớp nháy” một năm rồi phải không Frederick?

Họ bị đuổi khéo ra ngoài với nhau ở một con đường bị bom tồi tàn, trong khi hai người già hớn hở bên chai whisky.

– Có ý kiến gì không? – Cô Elisabeth hỏi.

Hắn trông có vẻ dễ coi. Cô thích cái vết sẹo của hắn và cái buồn rầu ủ rũ của hắn. Hầu như có quá nhiều sự thông minh và chủ tâm trong mắt hắn. Một lần, hắn gỡ mũ ra và cào soèn soẹt trên đầu, Elisabeth lần nữa lại để ý mái tóc húi cua của hắn. Hắn rõ ràng không giống tuýp người quân sự. Và bộ đồ hắn mặc cũng giống như của cha hắn, trông rất mới và đúng là đồ may sẵn. Hắn chẳng có áo quần nào để mặt khi đi phép chăng?

– Tôi cho rằng – Cô nói – Họ đang dự tính cho một đám cưới?

Mắt hắn loé sáng lên niềm hân hoan. – Tôi sẽ không phiền về điều đó – Hắn nói.

– Anh phải được phép từ C .T (cấp trên) (10) của anh phải không?

– C.T ? – Hắn hỏi vẻ ngạc nhiên và hơi nao núng, giống như một đứa trẻ bị bắt quả tang không chuẩn bị trước cho câu hỏi.

Cô xem xét hắn kỹ lưỡng và nhớ lại tất cả những điều mà đối với cô dường như chuyện kỳ quặc này bắt đầu.

– Thế anh đã không đến rạp chiếu bóng trong một năm sao? – Cô nói.

– Tôi đang phục vụ quân đội.

– Không – ngay cả – tổ chức giải trí trong quân đội?

– Ồ, tôi không tính đến những việc đó.

– Chắc chắn là khủng khiếp dễ sợ giống như ở trong tù!

Hắn nhăn nhở cười yếu ớt và đi rảo bộ thật nhanh suốt mọi lúc, cốt để cô phải đuổi theo hắn, họ đi qua các cổng cửa công viên Hyde.

– Nào, thú nhận đi – Cô nói – Cha anh không phải là ngài “đại quí tộc” Lord Driver.

– Ồ! Vâng, ông ấy không phải.

– Chẳng hơn gì ông chú “hiệu trưởng” trường đại học của tôi.

– Cái gì? – Hắn bắt đầu cười lớn – Đó là nụ cười khoái trá, một nụ cười người ta không thể tin cậy nhưng là nụ cười làm cho người ta phải cười lại và tán thành rằng, trong cái thế giới điên đảo này tất cả mọi thứ chẳng có nghĩa lý gì cả.

– Tôi đúng là ở từ Borstal ra – hắn nói – Còn cô ở đâu?

– Ồ, tôi chưa từng phải ở trại giam. – Elisabeth nói.

– Cô sẽ không bao giờ tin tôi – Hắn nói – Nhưng, tất cả nghi lễ đó nó trông giả dối đối với tôi. Dĩ nhiên cha tôi cả tin nó.

– Và chú tôi lại cả tin anh. Tôi thì hoàn toàn khác.

– Được rồi. Chuyện đám cưới coi như chấm dứt. Trong chừng mực nào đó, tôi xin lỗi cô.

– Tôi vẫn còn tự do.

– Tốt – Hắn nói – Chúng ta có lẽ nên bàn luận nó.

Và ở nơi công viên, dưới ánh nắng thu yếu ớt, họ cùng trao đổi bàn luận nó từ mọi ngóc ngách, mọi khía cạnh. Có những âm mưu gian lận lớn hơn ở xung quanh họ. Những viên chức trong các Bộ đi ngang qua cắp theo những chiếc cặp hồ sơ nhỏ: Những kẻ kiểm soát trăm mọi thứ, hoan hỉ ngang qua bên trong những chiếc ô tô, những đàn ông trong bộ đồng phục ka-ki với phù hiệu đỏ chói và gương mặt ngây ra như trong các pa-nô quảng cáo đi dài bước trên đường một cách có chủ ý. Cái lọc lừa của họ chỉ là một cái nhỏ nhoi trong cái tiêu chuẩn của thiên hạ, và là một cái vô tội vạ – của một chàng trai từ Borstal và một cô gái không đến từ nơi đâu, có lẽ từ quầy hàng của người bán vải hay từ các sạp nhỏ ở ngoài phố.

– Ông ấy xếp gọn lại cũng có được vài trăm. Tôi chắc thế. – Federick nói – Ông ấy nghĩ, ông ấy sẽ có thể ổn định được cuộc sống nếu như tóm được cô cháu gái yêu của ngài hiệu trưởng.

– Tôi cũng sẽ không ngạc nhiên nếu chú tôi có được khoảng năm trăm. Ông ấy muốn đặt tất cả vào người con trai của ngài đại quí tộc Lord Driver.

– Chúng ta có lẽ nên tiếp quản công việc của trường đại học này. Với một chút vốn liếng chúng ta thực sự có thể thành công. Đó chỉ là một món tiền nhỏ mọn.

Họ đâm ra yêu nhau mà không có một nguyên cớ nào cả. Trong công viên, trên chiếc ghế dài, họ vẽ kế hoạch lọc lừa của riêng họ, trên những lọc lừa gian lận già nua mà họ biết rằng bọn họ có thể vượt trội hẳn. Sau đó, họ quay vể lại và Elisabeth tự mình tuyên bố trước khi cô vào hẳn trong cửa:

– Frederick và tôi muốn kết hôn.

Cô gần như cảm thấy buồn cười cho hai kẻ già khù khờ, khi gương mặt họ đột nhiên sáng ngời lên cùng một lúc. Bởi vì mọi việc đã trở nên quá dễ dàng, và cô sa sầm lại cảnh cáo khi họ nheo mắt với nhau.

– Đây là điều rất ngạc nhiên – Lão Lord Driver nói.

– Chúa ơi, những người trẻ tuổi làm việc nhanh quá! – Ngài hiệu trưởng nói.

Suốt đêm, hai người già bàn tính kế hoạch an cư lạc nghiệp của họ. Và hai người trẻ sung sướng ngồi lùi lại trong một góc, nhìn ra phia ngoài hàng rào cầu kì trau chuốt công phu với nhận thức thầm kín rằng: Thế giới luôn luôn mở rộng ra trước những người trẻ tuổi.

 

 

 

~~~~~~000000~~~~~~

 

 

 

 

  1. Chiến tranh thế giới thứ Hai (1939-1945)

  2. Oxford: Thành phố Oxford nằm cách London khoảng 90 km phía tây bắc. Thành phố được biết đến nhiều là do có Viện Đại học Oxford nổi tiếng, có từ thế kỉ 11. Nói lấp lửng trường St Ambrose thuộc Oxford, là có ý đồ đánh lận giữa địa hạt Oxford và Viện đại học Oxford (Cấu trúc của Oxford khá đặc biệt, Viện Đại học Oxford là một liên minh của 38 trường college như Keble College, St Antony’s College, St john’s College, The Queen’s College… Mỗi đơn vị có quyền tự trị riêng). Ông Nicolas Fennick, Cử Nhân Xã hội, trợ giáo cho giảng viên đại học của trường Đại học Oxford, đã mạo danh là Hiệu trưởng một phân ban Đại học hàm thụ do ông lập ra.

  3. Aspidistra: Một loai cây thuộc họ hoa huệ tây, vào thời triều đại Victoria người ta thường trồng trong nhà như là biểu tượng thuộc giai cấp trung lưu, cần giữ gìn sự kính trọng.

  4. Lord: Danh gọi tầng lớp quí tộc (Nam tước, Hầu tước, Bá tước…). Lord Driver: Vừa có nghĩa là ngài Driver (một quí tộc). Vừa có nghĩa là ông Lord Driver (một thường dân).

  5. Borstal: Địa danh, nói văn vẻ là trường cải huấn thanh thiếu niên phạm pháp, nói bình dân hơn là trại cải tạo.

  6. Nguyên văn bằng tiếng Pháp: A la lantern. Nghĩa đầy đủ là mettre à la lanterne : Treo cổ lên cột đèn (thành ngữ thời cách mạng Pháp).

 

  1. Nguyên văn: St. Ambrose’s rooks : Những con quạ ở trường St. Ambrose; (hoặc: Những quân lừa đảo ở trường St. Ambrose).

  2. Nguyên văn: Crooks?: Những chỗ cong queo?; (hoặc: Những kẻ lường gạt?) (tác giả chơi chữ, và châm biếm kiểu ông nói gà bà hỏi vịt)

  3. A.C Swinburne (1837-1909): Thi sĩ lừng danh nhất vào nửa cuối thế kỉ XIX của Anh. Từng là sinh viên Đại học Oxford, nhưng vì thích uống rượu và có tư tưởng chống đối Cơ Đốc giáo nên sau ba năm học bị đánh rớt, không được cấp bằng tốt nghiệp.

  4. Nguyên văn C.O, Viết tắt của Commanding Officer: Sĩ quan chỉ huy.{jcomments on}

 

 

 

 

0 thoughts on “Kỳ phùng địch thủ

  1. Phuong

    Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Green, Giờ thứ 25 của Constantin Virgil Gheorghiu. Kỳ phùng địch thủ hay kẻ tám lạng bên nửa cân, hoặc kẻ cắp gặp bà già, hoặc bốn chín gặp năm mươi …bốn nhân vật đều trúng mánh, cặp trẻ trúng đậm. Cảm ơn Tú Nhân, Tuyên.

    Reply

Leave a Reply

Your email address will not be published.