Tình Người

Tôi đến Houston nhiều lần. Giới thiệu sách. Đọc thơ. Tâm tình với các
bạn trẻ. Và lần sau cùng, năm năm trước, cũng để giới thiệu sách và
đọc thơ. Thời gian như bóng mây ngoài khung cửa phi cơ mỗi lúc một xa
nhưng Houston vẫn là thành phố tôi đã mang theo và cũng để lại nhiều
kỷ niệm. Đồng hương và bạn bè tôi ở đó đông đến nỗi trang giấy này
không viết hết tên của họ. Ở Houston, tôi có những người bạn của thời
kỳ Internet vừa mới hình thành trong cộng đồng người Việt và cũng có
những độc giả thật là thân dù chưa hề biết mặt.

Một lần tôi từ Houston về lại Boston trong cơn bão tuyết. Tuyết rơi
lớn đến độ phi đạo không an toàn để phi cơ hạ cánh. Phi cơ bay thấp.
Tôi có thể nghe tiếng tuyết đập vào thân máy bay xào xạc như có thể
làm chiếc hộp kim loại mong manh kia vỡ nát bất cứ lúc nào. Phi cơ vần
vũ trên không phận Boston cho đến khi gần hết xăng phải bay ngược lại
phi trường Providence, cách Boston 45 dặm. Tuyết ở Providence cũng rất
dày tuy không bằng Boston. Trạm kiểm soát không lưu không có chọn lựa
nào khác nên phải cho phi cơ hạ xuống trong tình trạng vô cùng nguy
hiểm. Tiếng cọ xát của đôi cánh máy bay cắt xuyên qua lớp tuyết dày
như tiếng lụa xé. Tôi đoán thầm, tất cả hành khách chắc đang thề thốt
sẽ không bao giờ đi máy bay lần nào nữa. Sau khi hạ xuống xong, phi cơ
đậu ngay cuối phi đạo vì không đủ sức để lăn vào cửa. Hành khách phải
bước xuống và lội lên 20 phân tây tuyết để vào hành lang phi trường.

Nhưng đó cũng là lúc cành hoa tình người nở rộ. Các bạn trẻ dìu các cụ
già, những người còn khỏe giúp bế các em nhỏ, tay xách, vai mang vào
bên trong phi trường. Đoạn đường ngắn nhưng gần cả giờ mới vượt qua
được. Chúng tôi chen chúc nhau trong hành lang chật hẹp của một phòng
chờ. Ngày đó cell phone còn rất hiếm. Trong hơn trăm người chỉ có vài
chiếc. Tôi có một cái cell phone hiệu Nextel nặng nề do hãng cấp nhưng
dây điện thì lại gởi theo hành lý. Tôi chia cho những người chung
quanh để họ gọi về nhà. Mỗi người chỉ được phép nói một câu.

Sang ngày sau chúng tôi cùng lên chiếc xe Bus của hãng máy bay cung
cấp để về Boston. Những người trẻ đều phải đứng, chỗ ngồi dành cho các
cụ già, phụ nữ và các cháu nhỏ. Đoạn đường 45 dặm là đoạn đường gian
khổ. Khi xe chạy vài trăm thước chúng tôi phải xuống đào tuyết bằng
tất cả những gì mình có. Lại chia nhau từng khúc bánh mì, từng ly nước
ngọt, những lời an ủi, khuyến khích. Không ai thở than, trách móc. Tất
cả đều sống như một gia đình trong cơn hoạn nạn.

Đến chiều tối chúng tôi mới về đến Boston. Khi chia tay nhau ở hành
lang phi trường Logan, bà cụ ngồi gần chỗ tôi đứng trên xe, chợt nói
lớn như để mọi người cùng nghe: “Cuộc đời thật là kỳ lạ, những người
sống với nhau một ngày trọn vẹn, gần gũi, đáng nhớ như thế này mà suốt
đời còn lại có thể sẽ không bao giờ gặp nhau lần nữa”.

Nhiều người trước đây cũng đã nói những câu tương tự như cụ. Nhưng
khác với các triết gia chứng nghiệm lý lẽ của kiếp nhân sinh bằng sự
suy niệm, câu nói của bà cụ là kết luận sau một ngày thật trọn vẹn vui
buồn chúng tôi đã sống với nhau. Câu nói của cụ nhắc nhở về đặc tính
mong manh của kiếp người nhưng đồng thời từ trong cái mong manh, lo
âu, sợ hãi đó, giá trị đích thực của tình người được thể hiện. Sống
chết là định luật hiển nhiên nhưng không phải ai cũng dễ dàng chấp
nhận. Nhiều người sống tưởng như mình sẽ không bao giờ chết.

Với tôi, câu nói của cụ như được trích ra từ số phận gắn liền với cuộc
đời mình. Biết bao khoảnh khắc quý giá trong đời tôi đã sống qua và có
thể sẽ không bao giờ được sống qua lần nữa. Nhiều khi ngồi một mình
hình dung lại những kỷ niệm. Từ tuổi thơ cho đến lúc trưởng thành.
Những chuyến xe. Những sân ga. Giòng sông Thu Bồn. Mặt hồ trong buổi
chiều cuối thu. Ly cà-phê đen. Bài hát cũ. Tất cả vẫn còn đó nhưng đã
rất xa xôi. Còn lại quanh đây là những câu hỏi tại sao nhưng không có
câu trả lời.

Tôi đi qua cuộc đời này như chiếc lá.

Nhà văn Lương Thư Trung, hiện đang cư ngụ tại Houston, khi còn ở
Boston, có lần thắc mắc tại sao tôi thường viết về những chiếc lá.

Một ngày rảnh rỗi anh ngồi đọc tập “Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười”,
sau đó viết một tùy bút Người tiều phu và những chiếc lá vàng với
những câu rất đẹp: “Đất trời rồi sẽ chuyển sang mùa theo sự vận hành
của vũ trụ. Những chiếc lá vàng rồi sẽ rơi rụng, bay đi, bỏ lại bên
trời những cành, những nhánh khẳng khiu, buồn thảm đến ngậm ngùi…
Trong dòng đời, với biết bao lần ngụp lặn, chìm đắm trong bể khổ trầm
luân, giông tố, bão bùng… Rồi bức tranh vân cẩu cũng phải tan đi, để
trả lại trần gian này một chút nắng ấm mặt trời, để trả lại cho con
người một cõi an nhiên, thanh tịnh. Cao đẹp biết bao khi có những con
người hy sinh đời mình tự nguyện làm một người tiều phu với tấm lòng
từ bi đi khắp bốn phương tám hướng gom góp từ nhánh củi, cọng rơm,
ngọn cỏ đến những chiếc lá vàng khô để đốt lửa soi đường, sưởi ấm nhân
sinh! Hạnh phúc thay được làm một nhà thơ! Hạnh phúc thay được làm một
người tiều phu với tấm lòng từ bi đi góp nhặt những chiếc lá vàng!”

Con đi góp lá nghìn phương lại

Đốt lửa cho đời tan khói sương”

Anh gởi tôi đọc. Chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên mình dùng chữ “lá”
nhiều đến thế. Có lẽ vì lá gần gũi tôi trong một khoảng đời niên thiếu
khá dài.

Ðừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ

Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ

Ðau thương con viết vào trong lá

Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Hay

Ai về qua phố Hội An

Mua dùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên

Tôi đi quét lá trăm miền

Mẹ ngồi dệt sợi ưu phiền quanh năm

Hay

Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi

Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn

Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới

Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn

Hay

Một chiếc lá vừa rơi trên nấm mộ

Thu đã về rồi đó phải không em

Anh chợt thấy bàng hoàng trong tuổi dại

Một tình thương tha thiết sẽ không quên.


Hay


Em đừng hỏi ta mong về quê cũ

Chiếc lá khô còn nhớ cội thương cành

Ta chẳng lẽ bước chân đời lê mãi

Nơi quê người làm một kẻ lưu dân

Hay

Cho tôi nhặt chiếc lá vàng trước ngỏ

Viết bài thơ tha thiết hiến dâng đời

Chút chân tình trang trải với muôn nơi

Rất nhỏ bé nhưng vô cùng sâu rộng

Hay

Mỗi chiếc lá như chừng nghe hơi thở

Mỗi cành cây như có một linh hồn

Ta sẽ về sống lại môt lần thôi

Em sẽ khóc như chưa hề được khóc

Hay

Ai mang em trên đường đi  ra biển

Chẳng kịp về thăm góc phố năm xưa

Em bỏ đi như lá bỏ quên mùa

Như giọt nước quên tấm lòng biển cả.


Và nhiều nữa.

Ngày xưa khi trọ học ở chùa Viên Giác, tôi nhỏ nhất trong chùa nên
được giao công việc quét lá. Anh Hùng gánh nước, anh Sáu tưới rau, chú
Ngô đi chợ, còn tôi không làm được những chuyện đó nên chỉ lo làm sạch
sân chùa. Không ai có phòng ngủ riêng. Năm đầu tôi ở chung phòng với
chú Điển, bây giờ là Hòa Thượng Thích Như Điển. Mấy năm sau tôi dọn
sang ở với các điệu cùng lứa tuổi trong căn phòng sát dưới gốc đa. Các
điệu rất vô tư. Nằm xuống là ngủ ngay. Đúng giờ thức dậy đi tụng kinh
khuya. Tụng kinh xong lại đi ngủ tiếp. Các điệu hoạt động tự nhiên như
những chiếc máy. Ít cười và ít nói. Tôi cũng cùng tuổi nhưng không như
các điệu, đêm nào khi tới phiên mình đánh chuông xong, tôi thường nằm
bên hiên chùa nghe tiếng lá reo. Nhất là mùa thu, tiếng lá rung như
một điệu nhạc.

Ở chùa Viên Giác ngày đó có thầy Giải Nguyên. Thầy đi tu khi tuổi đã
về già sau khi đã nếm đủ hương vị đắng cay, thăng trầm, vinh nhục của
cuộc đời. Thầy là một trong những người giàu có ở quận Duy Xuyên bỗng
dưng phát nguyện xuất gia. Năm đó thầy đã ngoài sáu chục tuổi. Những
người già thường ít ngủ. Thầy cũng thế. Khi thấy tôi nằm trên bệ
xi-măng trước chùa, thầy cũng đến ngồi gần. Thầy kể tôi nghe nhiều
chuyện vui buồn trong đời thầy. Nhưng dù chuyện gì cũng chỉ để dẫn đến
một lời khuyên dành cho tôi, đời là bể khổ và chỉ có đi tu là con
đường giải thoát. Tôi không phản đối lý luận của thầy nhưng bạch với
thầy tôi không muốn đi tu. Tôi chỉ là người trọ học và một ngày không
xa tôi sẽ ra đi. Tương lai của tôi nằm phía bên kia cổng tam quan.
Dường như tôi sinh ra là để đi xa. Đi theo chọn lựa và nhiều khi không
có quyền chọn lựa.

Giống như bà cụ đã quên mình vừa trải qua một kinh nghiệm sống chết mà
chỉ còn nhớ đến những kỷ niệm đẹp, tôi cũng thường nghĩ đến những hạnh
phúc nhiều hơn là gian khổ khi nhìn lại quá khứ. Tôi nghĩ đến những
người tôi đã mang ơn. Nhiều lắm. Từ những đứa bạn nhỏ chắt chiu những
đồng tiền lẻ của cha mẹ cho để chia sẻ với tôi cho đến Mẹ Hòa Hưng,
người đã nuôi tôi chín năm thử thách nhất của đời mình.

Thời gian ở Viên Giác là một ví dụ. Đó là thời gian cực kỳ cô đơn về
tinh thần và khắc khổ về vật chất. Mà thật vậy. Chùa rất nghèo. Không
có ruộng đất như các chùa ở ngoại ô như Long Tuyền, Phước Lâm, Chúc
Thánh. Nếu các bác có đi chợ cũng chỉ để mua sắm chút nấm, chút mì
căng cho thầy, phần lớn chúng tôi ngày hai bữa sống nhờ vào thửa rau
lang trồng trước sân chùa và những hủ chao do các bác bên xã Cẩm Nam
mỗi tháng hai kỳ sang làm giúp. Các thầy, các chú lớn tuổi đi đám ma
chay còn được cúng dường tiền bạc để chi dùng riêng tư, không ai cúng
dường cho đứa bé như tôi.

Đời tư của tôi không ai biết. Thầy chỉ hỏi một câu khi tôi đến và sau
đó không hỏi nữa. Họa hoằn lắm mới có một người bà con từ trên quê
xuống đi chùa, tình cờ nhận ra, vuốt tóc tôi vài cái, nói đôi lời an
ủi rồi ra đi. Cô tôi biết nhưng chưa bao giờ có phương tiện để vào
thăm tôi. Ngoài các nhân vật, các câu chuyện, các tình tiết trong
những cuốn sách của thầy để trên lầu, tôi không có ai để tâm sự. Tôi
cũng không buồn xen vào chuyện người khác dù có những chuyện tôi không
đồng ý. Trong những phiên họp đại chúng, các thầy, các chú lớn tranh
luận nhiều vấn đề nhưng tôi chỉ ngồi nghe mặc dù về nhận thức tôi đã
lớn hơn nhiều trong số họ. Tôi chỉ là khách trọ, đến không ai hay và
đi không ai tiễn. Ngoài trừ những chiếc lá rung như một điệu nhạc buồn
trong một ngày đầu thu, gần năm năm sau, tôi “một mình làm cả cuộc
phân ly”.

Nhưng những cực khổ đó đã trở thành phân bón cho những bông hoa tình
người trong khu vườn mùa xuân của đời tôi nở rộ, để hôm nay khi nghĩ
đến Viên Giác tôi cảm thấy thật êm đềm. Tiếng chuông chùa, lời kinh
khuya đã nhẹ nhàng đi vào tuổi thơ tôi, đã chuyển hóa tâm hồn chất đầy
oan nghiệt của tôi mà nhiều khi tôi không biết.

Những người có cuộc đời nhiều chịu đựng thường phải biết vượt qua, đôi
khi bằng cố gắng và đôi khi chỉ bằng cách ngẩng đầu lên mà đi, khinh
thường những chướng ngại. Tôi có cả hai. Bây giờ khi nóng tính, khi
quá hăng say về một chuyện gì, dù đúng hay sai tôi cũng biết dừng lại
và biết lắng nghe, không khinh thường sự việc như ngày còn trẻ. Không
có những ngày ở Viên Giác, khu vườn đời tôi sẽ buồn bã, khô khan, điêu
tàn và trống vắng biết bao nhiêu.

Câu nói của bà cụ từ chuyến bay Houston, từ đó, có thể viết ngắn hơn,
tình thương và tình người mới thật sự là mùa xuân vĩnh cửu của con
người.{jcomments on}

 

0 thoughts on “Tình Người

  1. Quốc Tuyên

    “Tình thương và tình người mới thật sự là mùa xuân vĩnh cửu của con
    người.”
    Rất hay, cám ơn TTĐ.

    Reply
  2. Kiều Thanh

    “Nhưng những cực khổ đó đã trở thành phân bón cho những bông hoa tình người trong khu vườn mùa xuân của đời tôi nở rộ, để hôm nay khi nghĩ đến Viên Giác tôi cảm thấy thật êm đềm. Tiếng chuông chùa, lời kinh khuya đã nhẹ nhàng đi vào tuổi thơ tôi, đã chuyển hóa tâm hồn chất đầy oan nghiệt của tôi mà nhiều khi tôi không biết.”
    Cuộc sống thật diệu kỳ và những cơ duyên đặc biệt của tác giả không phải ai cũng có được có lẽ nhờ thế trong thế giới văn chương đã nở rộ một cánh sen thắm thiết tình người .

    Reply
  3. Trần Kim Quy

    Đọc xong ” lời tự sự” của anh Trần Trung Đạo, lòng tôi bỗng rưng rưng…Những tâm tình hết sức chân thực mà anh đã trang trãi trong bài viết, tựu trung lại, chỉ là muốn nói đến “tình thương” và “tình người” cao đẹp, xuất phát từ câu nói của bà cụ đồng hành trên chuyến xe của cuộc đời:” “Cuộc đời thật là kỳ lạ, những người sống với nhau một ngày trọn vẹn, gần gũi, đáng nhớ như thế này mà suốt đời còn lại có thể sẽ không bao giờ gặp nhau lần nữa”. Hay quá! Đẹp quá! tuyệt vời quá! Xúc động quá! Xúc động đến rưng rưng… Bởi chỉ có: “…tình thương và tình người mới thật sự là mùa xuân vĩnh cửu của con người”. và, có thêm được nữa không khi nói rằng : và cũng chỉ có tình thương và tình người mới có thể xóa tan thù hận để làm nên một thế giới hòa bình, an lạc và hạnh phúc cho con người trên trái đất này!
    Xin được cảm ơn anh Trần Trung Đạo!

    Reply
    1. nguyentiet

      Nguyentiet cũng có cùng cảm nhận với TKQ qua các câu trích dẫn. Xin cám ơn anh Trần Trung Đạo.

      Reply
  4. bagiakhoua

    Bài viết thật lôi cuốn và xúc động , những câu thơ trích dẫn rất hay . cám ơn anh Trần Trung Đạo

    Reply
  5. Thu Thủy

    Trong dòng đời, với biết bao lần ngụp lặn, chìm đắm trong bể khổ trầm
    luân, giông tố, bão bùng… Rồi bức tranh vân cẩu cũng phải tan đi, để
    trả lại trần gian này một chút nắng ấm mặt trời, để trả lại cho con
    người một cõi an nhiên, thanh tịnh. Cao đẹp biết bao khi có những con
    người hy sinh đời mình tự nguyện làm một người tiều phu với tấm lòng
    từ bi đi khắp bốn phương tám hướng gom góp từ nhánh củi, cọng rơm,
    ngọn cỏ đến những chiếc lá vàng khô để đốt lửa soi đường, sưởi ấm nhân
    sinh!

    Rất ngưỡng mộ tấm lòng nhân hậu, bao dung của tác giả đối với đời sống này,

    Reply
  6. Qua Đường

    Những mối duyên may mắn đã rèn nên một tâm hồn nhân hậu bài viết thật nhân bản.

    Reply
  7. Giáng Hương

    Mỗi chiếc lá như chừng nghe hơi thở

    Mỗi cành cây như có một linh hồn
    Hay và rất đúng

    Reply
  8. HOANGKIMCHI

    Một tâm sự được thể hiện qua những câu thơ và bài viết rất sâu sắc, chân tình, thật cảm động .
    Cảm ơn anh Trần Trung Đạo.

    Reply
  9. trantrungdao

    Cám ơn quý anh chị và các bạn, thơ đăng đã lâu hôm nay mới nhớ vào
    phản hồi .Xin thông cảm.
    Qúy mến.
    TTD

    Reply

Leave a Reply

Your email address will not be published.